V. Hướng dẫn nghi lễ tổ tiên tại Việt Nam
Huấn thị Plane Compertum ra đời năm 1939, là tin vui cho các nhà truyền giáo và tín hữu tại Châu Á, giải tỏa những khó khăn lương tâm. Từ nay, tân tòng gia nhập đạo được tiếp tục biểu lộ lòng tôn kính tổ tiên theo nghi thức gia đình. Tuy nhiên, do hoàn cảnh thế chiến thứ hai và các cuộc nội chiến, phải hơn hai thập niên sau, Hội đồng giám mục Việt Nam mới chính thức xin Tòa thánh cho áp dụng bản huấn thị.
Ngày 15-11-1964 đức Tổng giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình đã loan tin vui. Ngài nói : “Ðây thực là một ngày lịch sử, một hiện tượng mới cho toàn thể Giáo hội Việt Nam. Chúng tôi, đại diện cho Hàng Giám mục Việt Nam, xin long trọng công bố tin mừng này…” Tuy nhiên Ngài cũng căn dặn: “Còn việc đưa áp dụng thực hành, chúng tôi sẽ ban bố sau những chỉ thị và mẹo mực cho từng trường hợp.” [37]
Đến ngày 14-6-1965, các giám mục Việt Nam đã chính thức ra thông cáo hướng dẫn tín hữu thể thức áp dụng huấn thị Plane Compertum. Và ngày 14-11-1974, các giám mục chủ tọa Khoá Hội thảo Truyền bá Phúc Âm toàn quốc, đã bổ sung cụ thể hơn nhiều hướng dẫn thực hành.
5.1 Thông cáo của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về việc tôn kính Tổ Tiên (năm 1965) [38]
Ngày 20-10-1964, Tòa Thánh qua Bộ truyền giáo đã chấp nhận đề nghị của Hàng Giám Mục Việt Nam xin áp dụng huấn thị Plane compertum est (08-12-1939), về việc tôn kính tổ tiên cho giáo dân Việt Nam.
Để hiểu rõ tinh thần Giáo Hội trong việc chấp thuận này, và để có những chỉ thị hướng dẫn trong khi áp dụng, Hội đồng Giám Mục muốn nêu lên mấy điểm sau :
I. Giáo hội công giáo đối với nền văn hóa và truyền thống các dân tộc :
1. Giáo hội Chúa Kitô bao giờ cũng tha thiết thực hiện mệnh lệnh Đấng Sáng Lập, để hiện diện khắp nơi và tuyên giảng Phúc âm cho mọi người. Cố gắng đầu tiên của giáo hội là giúp sao cho con người được nên hình ảnh đích thực của Thiên Chúa và được trung thực với sứ mệnh Kitô hữu của mình, để đạt cứu cánh sau hết là hạnh phúc đời đời. Công trình đó được thực hiện trong nội khảm của mỗi cá nhân. Nhưng nó có vang âm đến toàn diện cuộc đời và trong mỗi khu vực sinh hoạt của con người (Đức Piô XII: Huấn dụ tại Cơ Mật Viện, ngày 20-02-1946).
2. Mặt khác, từ nguyên thủy cho đến ngày nay, Giáo hội công giáo vẫn tuân theo tiêu chuẩn Phúc Âm. Theo đó, Giáo hội không hủy bỏ hay dập tắt những giá trị thiện hảo, liêm chính, chân thành của các dân tộc. Âu cũng vì bản tính nhân loại, dù còn mang dấu vết sự sa ngã của tổ tông, song vẫn giữ trong nội tâm một căn bản tự nhiên mà ánh sáng và ân sủng Thiên Chúa có thể soi chiếu, dinh dưỡng và nâng lên tới một mức độ đức hạnh, một nếp sống siêu nhiên đích thực. Cũng vì vậy mà Giáo hội không bao giờ miệt thị, khinh chê tư tưởng cũng như nghệ thuật hoặc văn hóa của người không công giáo. Trái lại, Giáo hội đã từng góp phần thanh luyện hoặc bổ túc để đi đến chỗ hoàn hảo. Trải qua các thể kỷ, giáo hội đã thánh hóa những phong tục cũng như những truyền thống chân chính của các dân tộc. Giáo hội cũng đã nhiều lần đem nghi lễ của miền này, xứ nọ sát nhập vào nền phụng vụ của mình, sau khi đã tu chỉnh cả tinh thần và hình thức, để ghi nhớ mầu nhiệm hoặc để tôn kính các bậc thánh nhân hay các vị tử đạo (Đức Piô XII: Thông điệp Evangeli praecones, 2-6-1951; Đức Gioan XXIII trích dẫn tư tưởng này trong Thông điệp Princeps Pastorum, 28-11-1959).
3. Đối với các tôn giáo khác, giáo hội công giáo cũng chủ trương một lập trường rõ rệt. Dĩ nhiên giáo hội không thể tham dự vào các nghi lễ của tôn giáo khác, hoặc coi tôn giáo nào cũng như tôn giáo nào, và lãnh đạm để mặc ai muốn hay không muốn tìm xem Thiên Chúa có mạc khải một đạo không sai lầm, trong đó Thiên Chúa được nhận biết, kính mến và phụng thờ. Tuy nhiên, giáo hội không từ chối công nhận một cách kính cẩn những giá trị tinh thần và luân lý của các tôn giáo khác (Đức Phaolô VI, Thông điệp Ecclesiam suam, 6-8-1964). Giáo hội không phủ nhận điều gì vốn là chân lý và thánh thiện của bất cứ tôn giáo nào. Giáo hội luôn luôn rao truyền Đức Kitô là “đường đi, là chân lý và là nguồn sống” và, trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm hòa với muôn vật.
Tuy nhiên giáo hội thành tâm và lưu ý cứu xét những hành động và sinh hoạt, những luật pháp và lý thuyết của các tôn giáo khác tuy có sai biệt với những điểm giáo hội đề ra, song vẫn mang lại một tia sáng nào đó của chính cái chân lý hằng soi sáng mọi người. Vì thế, Giáo Hội khuyên dục con cái mình tuy vẫn phải giữ Đức tin Công giáo tuyền vẹn, nhưng phải làm thế nào để nắm giữ và phát triển những của cải thiêng liêng, luân lý và những giá trị xã hội, văn hóa, gặp được trong các tôn giáo khác nhờ những buổi hội thảo, sự học hỏi và sự cộng tác với các tín đồ của các tôn giáo này (Công đồng Vaticanô II, khóa III : Giáo hội và các tôn giáo ngoài Kitô giáo, ngày 20-11-1964).
Chính lập trường đó của Giáo hội được đúc kết trong tư tưởng của các Đức Giáo Hoàng và trong Đệ nhị Công đồng Vatican, đã giải thích lý do của quyết định Toà Thánh, khi cho áp dụng huấn thị Plane compertum est tại Việt Nam ngày nay. Và cũng chiếu theo tinh thần đó, các Giám Mục hội nghị tại Đà Lạt trong những ngày 12 đến 14-6-1965 đã cho công bố thông cáo này.
II. Thể thức áp dụng huấn thị Plane compertum est
1. Nhiều hành vi cử chỉ xưa kia tại Việt Nam, có tính cách tôn giáo, nhưng nay vì sự tiếp xúc với bên ngoài và vì tâm tình, tập quán đã thay đổi nhiều, nên chỉ còn là những phương cách biểu lộ lòng hiếu thảo tôn kính đối với tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, những cử chỉ, thái độ, nghi lễ có tính cách thế tục, lịch sự và xã giao đó, Giáo Hội Công giáo chẳng những không ngăn cấm mà còn mong muốn và khuyến khích cho nó được diễn tả bằng những cử chỉ riêng biệt của mỗi nước, mỗi xứ và tùy theo trường hợp.
Vì thế, những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ý nghĩa thế tục rõ ràng là để tỏ tinh thần ái quốc, lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ (như treo ảnh, hình, dựng tượng nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ …) thì được thi hành và tham dự cách chủ động.
2. Trái lại, vì có nhiệm vụ bảo vệ Đức tin Công giáo được tinh tuyền, Giáo Hội không thể chấp nhận cho người giáo hữu có những hành vi, cử chỉ, hoặc tự nó, hoặc do hoàn cảnh có tính cách tôn giáo trái với giáo lý mình dạy.
Vì thế, các việc làm có tính cách tôn giáo không phù hợp với Giáo lý Công giáo (như bất cứ lễ nghi nào biểu lộ lòng phục tùng và sự lệ thuộc của mình đối với một thụ tạo nào như là đối với Thiên Chúa), hay những việc dị đoan rõ rệt (như đốt vàng mã), hoặc cử hành ở những nơi dành riêng cho việc tế tự … thì giáo hữu không được thi hành và tham dự. Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một cách thụ động như đã ấn định trong giáo luật, khoản 1258 (DL 1917).
3. Đối với những việc mà không rõ là thế tục hay tôn giáo, thì phải dựa theo nguyên tắc này, là nếu những hành vi đó, theo dư luận dân chúng địa phương không coi như sự tuyên xưng tín ngưỡng của một tôn giáo (ngoài Kitô giáo), mà chỉ biểu lộ một tâm tình tự nhiên, thì được coi như không trái với Đức tin Công giáo, nên được thi hành và tham dự. Trong trường hợp chưa hết nghi nan, thì có thể hành động theo tiếng lương tâm lúc ấy : Nếu cần, thì phải giải thích chủ ý của mình một cách khéo léo, hợp cảnh, hợp thời. Sự tham dự cũng chỉ có tính cách thụ động.
Đó là những nguyên tắc chung, giáo hữu cần phải dựa vào mà xét đoán theo lương tâm và hoàn cảnh. Trong trường hợp hồ nghi, mọi người liên hệ không được theo ý riêng mình, mà sẽ phán đoán theo chỉ thị của Toà Thánh và bàn hỏi với các Giáo sĩ thành thạo. Yêu cầu quý Cha phổ biến rộng rãi và giải thích tường tận thông cáo này không những trong các Nhà thờ mà cả mỗi khi có dịp, không những cho anh em giáo hữu mà cả cho người ngoài Công giáo. Các vị phụ trách Công giáo tiến hành cũng phải lấy thông cáo này làm đề tài học tập cho các hội đoàn trong các buổi họp và các khóa huấn luyện.
Làm tại Đà Lạt, ngày 14 tháng 6 năm 1965.
5.2. Một vài nhận định
Ta thấy trong phần II thông cáo HĐGM 1965, những hướng dẫn về Thể thức áp dụng huấn thị Plane compertum được chia làm ba khoản rõ rệt.
Khoản đầu, sau khi trích lại phần dẫn nhập của Plane compertum, thông cáo nói đến những gì được thi hành và tham dự cách chủ động : những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó hoặc do hoàn cảnh, có ý nghĩa thế tục rõ ràng là để tỏ tinh thần ái quốc, lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ (như treo ảnh, hình, dựng tượng nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ …). Giáo hội chẳng những không ngăn cấm mà còn mong muốn và khuyến khích.
Khoản hai, để “bảo vệ đức tin” thông cáo cấm một số việc được coi là “không phù hợp với giáo lý công giáo” chẳng hạn : các nghi lễ diễn tả phục tùng và lệ thuộc vào thụ tạo như đối với Thiên Chúa, việc đốt vàng mã, và cử hành ở những nơi dành riêng cho việc tế tự… Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một cách thụ động.
Khoản ba, thông cáo đề cập đến những việc làm không rõ mang tính cách tôn giáo hay dân sự. Khi đó cần dựa “theo dư luận dân chúng địa phương”, nếu đó không phải là một biểu lộ niềm tin của tôn giáo thì được phép tham dự. Nếu hồ nghi thì hành động theo tiếng lương tâm.
Trong bối cảnh công đồng chung Vaticanô II đang tích cực cổ võ việc hội nhập văn hóa và canh tân phụng vụ, việc áp dụng Plane compertum tại Việt Nam gặp nhiều thuận lợi. Đa số các gia đình công giáo từ nay đã thiết lập bàn thờ gia tiên, trưng hình, trưng hoa nến và bình hương. Nhiều tín hữu vốn là tân tòng, hưởng niềm vui trọn vẹn khi được cùng gia đình cử hành các nghi lễ, được niệm hương trước bàn thờ ông bà. Đặc biệt trong phụng vụ, các giám mục Việt Nam đã xin Tòa Thánh thêm vào tất cả các thánh lễ lời cầu cho tổ tiên [39]. Năm 1971, các giám mục đã chỉ thị các tín hữu dành riêng ngày mùng hai Tết nguyên đán để cầu cho tổ tiên.
Dầu sao, thông cáo cũng dự trù sau khi áp dụng trong thực tế, nhiều nội dung cần phải phân định thêm, khi viết thêm rằng : “Trong trường hợp hồ nghi, (tín hữu) không được theo ý riêng mình, mà sẽ phán đoán theo chỉ thị của Tòa thánh và bàn hỏi với các giáo sĩ thành thạo”.
Các nội dung hồ nghi đó sẽ được xác định rõ rệt trong “những quyết nghị của Ủy ban Giám mục về Truyền bá Phúc âm ngày 19-4-1972; được bàn thảo kỹ lưỡng trong Khoá hội thảo VII về Truyền bá Phúc âm toàn quốc họp tại Nha Trang và đúc kết bằng thông cáo ngày 14-11-1974 của các giám mục chủ tọa Khóa hội thảo.
Những nội dung mới trong Thông cáo 1974 là : Nên có bàn thờ Chúa cao hơn bàn thờ tổ tiên; được trưng hoa quả trên bàn thờ; được vái lạy bàn thờ hay giường thờ trong ngày giỗ kỵ hoặc hôn lễ; được vái lạy trước thi hài người quá cố; và tham dự nghi lễ tôn kính vị Thành Hoàng, các vị “Phúc Thần” tại đình làng. Đặc biệt ở đoạn kết, các giám mục khẳng định hiếu thảo là giới răn chứ không chỉ là bổn phận.
5.3. Hướng dẫn của các Giám Mục Việt Nam năm 1974 [40]
Chúng tôi, các giám mục chủ tọa Khoá hội thảo VII về Truyền bá Phúc âm toàn quốc, tại Nha Trang từ ngày 12 đến 14-11-1974, đồng chấp thuận cho phổ biến và thi hành trong toàn quốc, những quyết nghị của Ủy ban Giám mục về Truyền bá Phúc âm ngày 19-4-1972, chiếu theo Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam ngày 14-6-1965, về các lễ nghi tôn kính Ông Bà Tổ Tiên như sau :
Để đồng bào lương dân dễ dàng chấp nhận Tin Mừng, hội nghị nhận định : “Những cử chỉ, thái độ, lễ nghi (sau đây) có tính cách thế tục, lịch sử, xã giao, để tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính và tưởng niệm các Tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, nên được thi hành và tham dự cách chủ động” (Thông cáo HĐGMVN, 14-6-1965).
1. Bàn thờ Gia Tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện điều gì mê tín dị đoan, như hồn-bạch…
2. Việc đốt nhang hương, đèn nến, trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ Tổ Tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm.
3. Ngày giỗ cũng là ngày “kỵ nhật”, được “cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương, miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín, như đốt vàng mã…, và giảm thiểu, canh cải những lễ vật để biểu dương đúng ý nghĩa thành kính biết ơn Ông Bà, như dâng hoa trái, hương đèn.
4. Trong hôn lễ, dâu rể được làm “Lễ Tổ, Lễ Gia Tiên” trước bàn thờ, giường thờ Tổ Tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với Ông Bà.
5. Trong tang lễ, được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng cung kính người đã khuất, cũng như Giáo Hội cho đốt nến, xông hương, nghiêng mình trước thi hài người quá cố.
6. Được tham dự nghi lễ tôn kính vị Thành Hoàng, quen gọi là “Phúc Thần” tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc, hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải vì mê tín như đối với các “yêu thần, tà thần”.
Trong trường hợp thi hành các việc trên đây sợ có sự hiểu lầm, nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu, khích lệ, thông cảm … Đối với giáo dân, cần phải giải thích cho hiểu việc tôn kính Tổ Tiên và các vị anh hùng liệt sĩ, theo phong tục địa phương, là một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn kính liên quan đến tín ngưỡng, vì chính Chúa cũng truyền “Phải thảo kính cha mẹ”, đó là giới răn sau việc thờ phượng Thiên Chúa.
Nha Trang, ngày 14 tháng 11 năm 1974
Ký tên :
– Philiphê Nguyễn Kim Điền, tổng giám mục Huế
– Giuse Trần Văn Thiện, giám mục Mỹ Tho
– Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, giám mục Vĩnh Long
– Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang, giám Mục Cần Thơ
– Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận, giám Mục Nha Trang
– Phêrô Nguyễn Huy Mai, giám mục Ban Mê Thuột