Hành Trình Hội Nhập Gian Truân Nghi Lễ Thờ Kính Tổ Tiên

III. Ý kiến một số nhà truyền giáo ở Việt Nam

   Khởi đầu huấn thị Plane Compertum viết : “Rõ ràng tại Viễn Đông xưa kia có một số nghi lễ (ceremonies) gắn liền với nghi điển (rites) tôn giáo, nay vì những biến đổi theo thời gian về các phong tục và ý tưởng, nên nó chỉ còn mang ý nghĩa dân sự, để tỏ lòng tôn kính tổ tiên, yêu mến tổ quốc và vì lịch sự trong các tương quan xã hội….” Như vậy theo huấn thị, sở dĩ các lệnh cấm đã được ban hành trong quá khứ vì coi đây là những nghi lễ tôn giáo, nay cho phép vì dư luận khẳng định đó là những nghi thức dân sự.

   Khó khăn chính ở đây là khái niệm tôn giáo và từ ngữ. Với người tây phương việc phụng thờ, tôn thờ, kính thờ chỉ dành cho một Thiên Chúa, còn ngay cả các thánh dù đã được suy tôn, cũng chỉ tôn kính mà thôi. Trong khi tiếng Việt, từ thờ được dùng chung cho nhiều trường hợp như thờ cha kính mẹ, thờ chồng nuôi con…, chỉ bao hàm nội dung chu toàn bổn phận với người đã khuất. Tương tự theo tây phương, niềm tin người đã chết đang hiện diện và độ trì, các nghi lễ ngôn từ cầu khẩn với thần thánh và các nhân vật thuộc thế giới bên kia đều được coi là một dạng tôn giáo [14].

   Để hiểu hơn sự phân biệt đó tế nhị đó, xin giới thiệu những ý kiến bênh và chống của một vài nhà truyền giáo tại Việt Nam : trước tiên, những ý kiến ủng hộ khá rõ rệt của cha Đắc Lộ SJ và cha Juan de La Paz OP, trong giai đoạn lắng dịu (Xc phần 2.2). Sau đó, sự khác biệt giữa bênh và chống của hai thừa sai Sanna SJ và Heutte MEP đầu thế kỷ XVIII. Rồi đến những ý kiến trung dung của các thừa sai Paris cuối thế kỷ XVIII : các giám mục Labbé, Bá Đa Lộc, Labartette, và cha Boisserand. Trong tinh thần vâng phục quyết định của tòa thánh, các vị công khai bênh vực các nghi lễ tổ tiên, nếu có thể loại bỏ những gì là mê tín dị đoan như việc đốt vàng mã hoặc việc tin người chết về ăn của cúng.

 3.1. Ý kiến của cha Đắc Lộ SJ.

   Trong cuốn “Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài” cha Đắc Lộ dành hẳn bốn chương (22-25), để nói về vấn đề thờ kính người quá cố. Theo cha : “Trên trái đất này, có lẽ không một dân tộc nào chu toàn bổn phận và tôn kính hồn xác người quá cố hơn người dân vương quốc An Nam”. [15]

   Chương 23, cha Đắc Lộ nói đến ba điều dân Việt quen thực hiện khi người thân quá cố là : sắm áo quan sang trọng bao nhiêu có thể; cố mời nhiều người đưa tiễn và nhờ thầy địa lý tìm nơi an táng. Chương 24 khi nói về việc cúng giỗ, cha nêu lên ba sai lầm lớn là : tin hồn người quá cố có thể tự do trở về; họ có thể ăn uống dự tiệc với người còn sống; và tin sự sống, sức khoẻ, gia đình bình an thịnh vượng nhiều ít, đều nhờ ông bà cha mẹ đã quá cố phù hộ cho.

   Trước đó chương 22, cha thuật lại thói mê tín của những gia đình mời thầy pháp và bà đồng đến, để gọi hồn người chết nhập vào.

   Nhìn chung, cha Đắc Lộ ủng hộ việc tôn kính tổ tiên; ngài chỉ phê bình một số hình thức và tín ngưỡng có mầu sắc mê tín dị đoan, như mời người chết ăn đồ cúng, đốt vàng mã… Theo cha, sau khi loại bỏ những gì mê tín, các tín hữu nên thực hiện các nghi thức tôn kính tổ tiên. Cha xác định lập trường đó trong cuốn “Hành trình Truyền Giáo” :

   “Trong các thứ người ta tố cáo tín hữu Đàng Trong, thì tội lớn nhất là người tín hữu đã không săn sóc, tôn kính hồn người quá cố, nên người ta cho rằng Đạo chúng ta là Đạo mọi rợ, vì đã xoá khỏi lòng người tâm tình hiếu thảo cha mẹ, là tâm tình theo tự nhiên đã được khắc vào mọi tâm hồn. Sở dĩ người ta nói sai lạc như thế, là do một vài kẻ vì nhiệt tình thiếu cẩn trọng, đã muốn bãi bỏ mọi nghi thức đối với người đã khuất trong xứ này. Tôi đã thuật lại khá dài về những nghi thức trên trong cuốn Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài; thực ra có vài nghi thức, nếu người kitô hữu thực hiện, thì không thể không mắc tội, còn phần nhiều đều vô tội, và chúng tôi xét định rằng, người ta có thể giữ lại các nghi thức ấy mà không can hệ gì đến Đạo thánh”. [16]

3.2. Lập trường cha Juan de La Paz OP.

   Theo lời mời của các đức cha Lambert và Pallu, hai cha dòng Đaminh là Juan de Santa Cruz và Juan de Arjona tới Phố Hiến ngày 7-7-1676, chia sẻ sứ vụ tại Đàng Ngoài với các thừa sai Paris (François Deydier và Jacques de Bourges) và được trao phó việc mục vụ tại vùng Sơn Nam Hạ (Nam Định). Sang tháng sau, có thêm cha Dionisio Morales OP.

   Mới đến Đàng ngoài, các cha dòng Đaminh đối diện với các phong tục mới lạ và việc thờ kính tổ tiên. Các cha đặt ra 274 câu hỏi gửi về cho cha La Paz [17], giáo sư đại học Santo Tomas ở Manila, xin xác định các nghi thức ấy có phải là mê tín dị đoan không ?

   Vì là vấn đề quan trọng, nên ngay năm 1680 tại Manila, đã nhanh chóng xuất bản “Tập sách 274 câu hỏi của các Thừa sai Vương quốc Đàng Ngoài và cũng bằng ấy câu trả lời do cha đáng kính Gioan Paz giải đáp”. Đại ý qua 274 câu trả lời, cha La Paz cho rằng các phong tục và nghi lễ đó không có tính cách tôn giáo, mà chỉ có tính cách dân sự và chính trị. [18]

3.3. Ý kiến đức cha Marin Labbé MEP

   Trong thư gửi về Hội thừa sai Paris ngày 16-10-1718 [19] đức cha Marin Labbé MEP (Đàng Trong, +1723) đã đề cao tài liệu của cha “tiến sĩ La Paz” : “cuốn sách trên có giá trị và uy tín tại Roma, có thể dùng làm bằng chứng trong cuộc tranh luận lễ nghi đối với người chết ở Đàng Ngoài, và cũng thế ở Đàng Trong, vì hai vương quốc này chỉ là một dân tộc theo cùng luật lệ, cùng phong tục….”  

   Tuy nhiên đức cha Labbé cũng cảnh giác, không thể hoàn toàn theo mọi câu trả lời của cha La Paz. Cha La Paz kết luận những nghi lễ ấy chỉ có tính dân sự vì dựa vào nội dung câu hỏi. Theo lập trường của các cha Đaminh ở Đàng Ngoài bấy giờ, thì những người có học hoàn toàn không tin việc hồn người chết trở về, hoặc ăn các đồ dâng cúng, chỉ có kẻ thất học mới sai lầm như vậy.

   Đức cha khẳng định : “Là người chứng kiến những gì xảy ra ở đây, tôi chắc chắn rằng, các người ngoại đạo vốn tin hồn cha mẹ hiện diện trong khi cử hành các nghi lễ, sẽ nhận lễ vật dâng cúng và nhận lời phù hộ săn sóc con cháu họ tùy theo mức độ rộng lượng trong việc dâng cúng”.

   Ngoài ra theo đức cha, một số người ngoại đạo thông thạo chữ nghĩa, vì không thể trả lời được những chất vấn người khác đặt ra, nên mới chế diễu những người thi hành các nghi lễ này, kỳ thực từ đáy lòng họ vẫn tin như thế.

3.4. Ý kiến của cha Heutte MEP

   Sau khi đức Clementê XI đã công bố tông hiến Ex illa die (1715), tại Huế linh mục Sanna [20] dòng Tên, vẫn cho phép tín hữu ở đây được giữ những nghi lễ, mà “các thầy cả Dòng Đức Chúa Giêsu đã ở xứ truyền giáo này từ đầu đến nay, sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, vẫn cho phép…” [21].

   Cụ thể, theo cha Sanna : – Tín hữu được mang cờ gia triệu trong các lễ an táng, chỉ cần viết câu ‘xin Đức Chúa Trời dẫn đưa linh hồn N… vào thiên đàng’. – Tín hữu được lạy cha mẹ sát đất khi các ngài còn sống cũng như đã qua đời, được giỗ, tức là được dâng cúng, bái lạy cùng các nghi lễ khác quen thi hành trong nước này, và điều này hợp với giáo huấn của Hội thánh. Ai không tuân giữ các nghi lễ trên đây, tức là lỗi điều răn thứ bốn ‘Hãy thảo kính cha mẹ’. – Tín hữu được thề, khi vua quan truyền lệnh, miễn là phải thề đúng sự thật.

   Trong thư ngày 7-12-1717 gửi Ban Giám đốc Hội Thừa sai Paris, cha Heutte MEP [22] viết : “Gia triệu mà cha Sanna cho phép là một khung hình lớn sơn son thếp vàng, vẽ hình rắn và lá cây, mà người ngoại mang trên đường đi an táng. Trong khung này có một hay hai miếng lụa đỏ, trên đó ghi bằng chữ Hán : “Xin thần dẫn đưa hồn Mỗ … về nơi an nghỉ”. Khung hình này được khênh trước quan tài hoặc đặt đầu quan tài, nơi bày một mâm toàn thịt thà. Người ngoại tin là hồn người mới qua đời và hồn thân quyến những người đã chết, đều cùng có mặt. Các cha Dòng Tên cho phép thực hành những điều ấy, mà chỉ yêu cầu đổi lời viết thành : ‘Xin Đức Chúa Trời đưa linh hồn Mỗ … vào thiên đàng’.

   “Với chút thay đổi này, chúng tôi chẳng hồ nghi là, dị đoan vẫn còn đó. Bởi vì : thứ nhất, cứ hai vạn người Đàng Trong mới có 100 người biết chữ Hán; thứ hai, trong số 100 đó, chưa chắc có ai để ý đọc hàng chữ kia; thứ ba, nếu họ cố gắng đọc đi nữa, thì họ lại tin rằng những người giáo hữu cũng tin tưởng như họ, rằng hồn người chết hiện diện ở khung hình hay mâm cúng để ăn; thứ bốn, Đức Thánh cha đã cấm bằng những lời chung trong sắc lệnh công bố năm 1715″.

3.5. Ý kiến của Đức cha Bá Đa Lộc và mấy vị thừa sai Paris cuối thế kỷ  XVIII

   Tông hiến Ex quo singulari công bố ngày 11-7-1742, đã chính thức lên án việc tôn kính tổ tiên, kính lạy Đức Khổng và nhiều phong tục khác. Trong đó, các số 25-26 cấm không ai được bàn tán gì nữa, nghiêm cấm giải thích hay thực hành khác với tông hiến này. Ai bất tuân, sẽ bị huyền chức và bị vạ tuyệt thông tức khắc, vạ dành cho Toà thánh.

   Cha Louvet, tức cố Ngôn [23] cho biết, dù vấn đề tôn kính tổ tiên đã Toà thánh tuyệt đối ngăn cấm; nhưng chúa Nguyễn Ánh vẫn bàn đến chuyện này với đức cha Bá Đa Lộc. “Đức cha và các thừa sai chỉ có thể trả lời : Sau khi xem xét lâu dài với nhiều cuộc tranh luận gay gắt, Roma đã tuyên bố không được phép, nên chúng tôi chỉ biết vâng phục’. [24]

   Đặc biệt, cha Adrien Launay MEP, đã dành đến 16 trang để bàn về nội dung này, qua đó ta biết lập trường của đức cha Bá Đa Lộc và một số thừa sai ở Đàng Trong [25].

   Nói chung các ngài, như cha Boisserand MEP [26] : “sẵn sàng đặt cách suy nghĩ của tôi dưới quyền phán định của các bề trên : khi một hành động tự nó là dị đoan, thì chẳng bao giờ được làm; nên, trong bất cứ trường hợp nào, cũng không được phép dâng của cúng cho các tà thần” (thư 17-8-1789).

   Cha Boisserand chủ trương : Việc tôn kính cha mẹ đã qua đời, và bày tỏ lòng yêu mến đó qua các hành động, cử chỉ, thì tự thân nó là đáng ca ngợi, nên chỉ cần loại bỏ những ý tưởng sai lạc và dị đoan thì được phép làm. Theo cha : chúa Nguyễn Ánh và các quan khi tham dự, không có những ý nghĩ sai lầm và dị đoan này. Cho rằng việc từ chối không cho phép tôn kính tổ tiên, sẽ chỉ làm tăng thêm hận thù, cha khẩn khoản yêu cầu cha Boiret, can thiệp với các đại học Sorbonne, Navarre và Roma, để có một câu trả lời rõ ràng ngay.

  Cha Boisserand so sánh các nghi lễ tại đây giống với nhiều thói tục ở Pháp như : soạn bữa ăn bên linh cữu đức vua mới qua đời dù không tin vua về để ăn; hạ mũ chào khi đi qua tượng vua Henri IV tại Pont-Neuf ở Paris; hoặc bỏ mũ khi đi qua ngai vàng đức vua tại Versailles, tất cả chỉ vì kính trọng chứ đâu phải vì tin vua hiện diện ở những nơi ấy. Ngoài ra, một đứa con thảo hiếu nhìn ảnh cha mẹ mà chảy nước mắt, thì đâu có phải vì nó tin hồn cha mẹ mình ở trong bức hình.

   Sau khi hoàng tử Cảnh từ chối bái lạy trước bàn thờ tổ tiên, Nguyễn Ánh mời đức cha Bá Đa Lộc đến trao đổi. [27]

  Đức cha khẳng định đạo công giáo coi bất hiếu với cha mẹ là tội nặng; nhưng đạo cấm tín hữu tại các nước ở vùng Đông Ấn tỏ lòng tôn kính cha mẹ bằng nghi thức thờ cúng, vì người dân thường tin hồn người chết về nhận sự bái lạy, về hưởng thụ các thực phẩm dâng cúng, và phù hộ cho họ sống lâu, giàu có … Niềm tin đó rõ ràng là không phù hợp với chân lý, nên giáo hữu không được phép làm.

   Nguyễn Ánh đáp : “Dù chẳng mang lợi ích gì cho tổ tiên hay cho mình, Ta vẫn muốn cử hành các nghi lễ để tỏ lòng thành, và để mọi người thấy Ta không quên tiên tổ, cũng là để nêu gương cho dân chúng về lòng hiếu thảo”.

   Đức cha thưa : “Trong số các thần dân của nhà vương, mấy ai quan niệm giống nhà vương… Nếu người Đàng Trong hiểu biết như nhà vương và coi việc thi hành các nghi lễ trên có tính cách dân sự, thì mọi giáo hữu ở đây sẵn sàng làm theo mà chẳng mắc tội gì. Nhưng, rõ ràng các nghi lễ trên được người Đàng Trong coi là có tính cách tôn giáo, nên ngưòi giáo hữu không thể làm được, vì đi ngược với giáo lý trong đạo”.

   Nguyễn Ánh tiếp : Nếu Ta công bố cho dân biết việc cử hành các nghi lễ ấy chỉ có ý nghĩa dân sự và chính trị, còn những tin tưởng có tính cách bình dân, mê tín, đều sai lầm, thì người giáo hữu có được phép giữ các nghi lễ đó không ? … Các khanh hãy lưu ý và hãy cho phép giáo hữu theo phong tục trong nước.

   Ngày 5-6-1796, đức cha Bá Đa Lộc viết thư cho giám mục phó Đàng Trong Labartette [28] đang ở Quảng Trị, về vấn đề nghi lễ tôn kính tổ tiên, với những nội dung chính như sau :  “Nếu Roma hỏi ý kiến, xin đức cha hãy trình bày sau khi đã suy nghĩ cẩn thận. Theo tôi nghĩ, đức vâng phục không ngăn cấm chúng ta giãi bày những nghi vấn của mình, chỉ cần chúng ta luôn luôn sẵn sàng vâng phục khi Toà thánh tuyên bố ý nghĩ của chúng ta không có căn cứ.” [29]

  “Từ khi Hội thừa sai Paris ra đời, người ta luôn luôn cho phép giáo hữu được bái lạy thi thể cha mẹ … Vị tiền nhiệm của tôi (đức cha Piguel MEP, 1764-1771), là người rất đạo đức, có lương tâm kính sợ, đã phục tùng với lòng e ngại. Trước khi qua đời, ngài viết thư cho tôi, nói rằng, không thể lên án việc bái lạy như thế dưới bất cứ khía cạnh nào… và khẩn khoản tôi trình bày lại với Roma, đừng ép buộc giáo hữu giữ thái độ như thế lâu hơn nữa đối với cha mẹ qua đời, đó là điều người Đàng Trong cho là vô lễ, bất hiếu.

  “Tôi tin rằng tông hiến được viết ra dựa trên những bản tường trình sai lạc, nên khi về Pháp, tôi thấy mình bó buộc vì bổn phận, phải giãi bày với nhà vua và các quan là những người tấn công tôi về vấn đề này, nhưng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Sau nhiều năm suy tư về vấn đề này, tôi không thể chần chừ mà chẳng trình bày lại với Bộ Truyền giáo. Xin cha hiểu cho rằng, việc bái lạy như thế chẳng có gì trái ngược với đức tin, tôi luôn luôn tiếp tục bảo vệ quan điểm này, cho tới khi nào Giáo triều Roma có quyết định khác ngược lại”.

   Trong thư ngày 30-5-1798 gửi cha Boiret, MEP, đức cha Bá Đa Lộc viết : “Một điều đích thực là, nghi lễ này dù có pha lẫn ít nhiều mê tín, thì tự nó chỉ là bày tỏ lòng tôn kính đối với cha mẹ như khi các ngài còn sống. Nếu người ta cất bỏ tất cả những gì trái ngược với đức tin, như đồ cúng, lời cầu xin …, thì những gì còn lại đều đáng ca tụng, hơn nữa còn cần thiết trong nước này… Trong thời kỳ đầu của giáo hội, các tông đồ và các thừa sai rộng lượng hơn chúng ta ngày nay. Hầu hết các nghi lễ trong giáo hội, đã được dân ngoại sử dụng, thì giáo hội cải đổi và thánh hoá chúng bằng cách hướng về Thiên Chúa, chỉ loại bỏ những gì trái ngược với đức tin thuần tuý.”

   Đức cha Labartette trong thư ngày 12-11-1800, gửi Ban Giám đốc Hội thừa sai Paris, đưa ra nhiều lý lẽ bênh vực nghi lễ lạy xác. Ngài cho rằng chẳng có gì là mê tín trong việc này, tất cả chỉ có tính cách dân sự, tỏ lòng kính trọng, hiếu thảo với cha mẹ, với các bề trên, bạn bè, ân nhân, việc cấm nghi lễ này gây ra biết bao thiệt hại cho việc truyền bá đức tin, làm cho người ngoại chán ghét, khinh bỉ, mà nói rằng :

  “Người ta vẫn khoe khoang là một đạo tốt lành khác thường, mà lại cấm việc lạy xác ư ? Lạy xác chỉ là nghi thức bên ngoài biểu lộ lòng tôn kính biết ơn đối với cha mẹ, bề trên…; cấm đoán như thế chẳng phải là tệ bạc với đấng sinh thành, nuôi dưỡng và dạy bảo mình sao…” ?

   Ngoài ra, đức cha Bá Đa Lộc không chỉ bênh vực nghi lễ tôn kính tổ tiên, ngài còn ước ao có được nghi thức phụng vụ địa phương khi đưa ra những nhận định khá thú vị :

   “Để cha thấy nhiều cái phải thay đổi, tôi chỉ xin nêu ra một cái bình thường nhất và ít quan trọng, đó là ‘áo các phép’ (surplis), thường được mặc trong tất cả các nghi lễ của giáo hội. Với chúng ta đó là bộ áo chỉnh tề, trang trọng, và có lẽ một số người còn cho là uy nghi. Nhưng hình thức và sắc màu thứ áo này, làm cho dân chúng xứ này khó chịu…

   Theo ngài, những lễ phục uy nghiêm giáo hội chẳng để lại ấn tượng gì với người xứ này, như mũ lễ vuông, áo lễ ngắn cộc, chật hẹp, cách xông hương, cúi đầu thì không sâu, để đầu trần khi hành lễ… mà họ cho là hời hợt, nực cười. Vì ở đây, các lễ phục đều dài rộng, nghi thức bái phục thì uy nghi, trang trọng. Nếu chứng kiến những nghi lễ của họ trong đền đài vua chúa và các đền thờ, chắc chắn ai cũng thấy những nghi lễ ấy vừa toát lên sự tôn kính vừa gây chú ý.” [30]

   Tóm lại chúng ta thấy, dù tông hiến 1742 đã cấm ngặt không cho bàn cãi gì nữa, nhưng nhiều thừa sai Paris cuối thế kỷ XVIII, đặc biệt là hai giám mục Đàng Trong, đức cha Bá Đa Lộc và Labartette, vẫn ra sức khẩn khoản xin Toà thánh xét lại, dù các ngài vẫn tuân theo Toà thánh, không dám cho phép giáo hữu tôn kính theo phong tục trong nước.

1 2 3 4 5 6

Comments are closed.