IV. Việc cho phép nghi lễ tổ tiên
Không biết lập trường các thừa sai Paris tại Việt Nam ảnh hưởng thế nào đến tòa thánh, hoặc có thể do tác động của phong trào tục hóa,. Sang thế kỷ XX, dựa trên lời khẳng định của chức trách địa phương, giáo hội Mãn Châu [31] và Nhật Bản đã được tòa thánh cho phép cử hành các nghi thức dân tộc năm 1935 và 1936.
Cũng theo tinh thần đó, ngày 8-12-1939 [32], thời đức Pio XII, Bộ Truyền giáo công bố Huấn thị Plane compertum, chính thức cho phép cúng giỗ tổ tiên tại Trung Hoa. Và năm 1964, các giám mục Việt Nam đã xin áp dụng Huấn thị trên cho tín hữu của mình.
4.1. Tại Mãn Châu
Nhận được lời xác định của Giám đốc Nha Tôn giáo Mãn Châu rằng nghi lễ tôn kính Khổng Tử : “chỉ là cách bày tỏ ra bên ngoài lòng tôn kính Đức Khổng, không hề có tính tôn giáo”, giám mục Thẩm Dương, đức cha Ernest Gaspais đã trình tài liệu đó lên Bộ Truyền giáo để xin ý kiến.
Ngày 28-5-1935, Bộ trưởng Bộ Truyền giáo, hồng y Pietro Biondi gửi thư hồi đáp, cho phép với điều kiện là đấng Bản quyền ở Mãn Châu phải công bố thư trả lời của Nha Tôn giáo và phải ra chỉ thị hướng dẫn giáo hữu minh định các nghi lễ này “tuyệt nhiên không mang tính cách tôn giáo”.
4.2. Tại Nhật Bản
Tại Nhật Bản năm 1932, tổng giám mục Tokyo, Alexis Chambon viết thư hỏi Bộ Giáo dục, ý nghĩa việc buộc học sinh tham dự các nghi lễ quốc gia. Thứ trưởng Bộ Giáo dục Nhật trả lời : “Việc kính viếng các đền quốc gia như đền Jinja bắt buộc theo chương trình giáo dục … chỉ mang ý nghĩa dân sự, nhằm tỏ bày lòng yêu nước và trung thành”. Đền Yasukuni Jinja là một trong những biểu tượng của Thần đạo Nhật Bản, nơi kính các anh hùng liệt sĩ Nhật Bản.
Dựa vào tài liệu đó, ngày 26-5-1936, Bộ Truyền giáo gửi cho Khâm sứ Toà thánh tại Tokyo bản huấn dụ Pluries instanterque, nhắc đến nghĩa vụ người công giáo phải yêu Tổ quốc, tôn trọng các nghi lễ đối với hoàng gia và người qua đời, miễn là những nghi lễ ấy có tính cách dân sự.
4.3. Tại Trung Hoa : Plane Compertum est
Ngày 8-12-1939, Bộ Truyền giáo sau khi lãnh ý đức Pio XII (ngày 7-12) đã công bố Huấn thị Plane compertum, tuyên bố chấm dứt các lệnh cấm, và luật buộc các giáo sĩ tuyên thệ. Và đây là nội dung bản Huấn thị [33].
“Rõ ràng tại Viễn Đông xưa kia có một số nghi thức gắn liền với nghi lễ ngoại giáo, nay vì những thay đổi theo thời gian về các phong tục và ý tưởng, nên nó chỉ còn mang ý nghĩa dân sự, để tỏ lòng tôn kính tổ tiên, yêu mến tổ quốc và vì lịch sự trong các tương quan xã hội…
“Năm 1935 và 1936, với sự chấp thuận của đức Piô XI (1922-39), Bộ Truyền giáo, dựa theo điều khoản 22 giáo luật 1917 [34], đã ban cho các đấng Bản quyền Mãn Châu và đế quốc Nhật những nguyên tắc mới trong việc hướng dẫn cho thích hợp hơn với những điều kiện hiện tại.
“Vừa qua các Hồng y Bộ Truyền giáo trong phiên họp khoáng đại ngày 4-12-1939, đã xem xét vấn đề : nên chăng dùng phương pháp tương tự cho các xứ khác mà thời gian đã mang lại sự thay đổi y hệt. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng những lý lẽ nghịch, thuận, và hỏi ý kiến các nhân vật thông thạo, các Hồng y đã quyết định đưa ra những tuyên bố sau đây :
“1. Xét rằng, nhiều lần chính phủ Trung Hoa đã tuyên bố cách minh nhiên là để mỗi người được tự do lựa chọn tôn giáo, và chính phủ cũng chẳng cần đặt ra những đạo luật và chỉ dụ về vấn đề tôn giáo, và bởi thế các nghi lễ do nhà cầm quyền thi hành để kính Đức Khổng, không có mục đích tế tự tôn giáo (culte religieux), nhưng chỉ là để tôn kính một nhân vật cao quý theo cách tôn trọng phải làm như tập tục tiền nhân, nên người công giáo được phép (licite) tham dự các nghi lễ kính Đức Khổng, trước hình ảnh hoặc bài vị mang tên Ngài trong các văn miếu hay trường học.
“2. Vậy không còn là trái phép (illicite), nhất là khi nhà chức trách yêu cầu trưng bày hoặc cúi đầu chào hình ảnh hay bài vị mang tên Đức Khổng trong các trường Công giáo. Nếu sợ gây ra gương mù, thì người Công giáo nên cẩn thận tuyên bố về lòng ngay thẳng của mình khi làm cử chỉ đó.
“3. Nhân viên và học sinh các trường Công giáo, nếu có lệnh ban cho họ, thì đừng từ khước tham dự (assister) các nghi lễ công cộng, dù bên ngoài có thể coi là nhuốm màu dị đoan, miễn là, theo đúng giáo luật điều khoản 1258 [35], họ thi hành cách thụ động với ý tưởng duy nhất là để tôn kính theo nghi lễ hoàn toàn dân sự. Để tránh mọi hiểu lầm về cử chỉ của họ, họ sẽ tuyên bố về ý hướng của họ mỗi khi xét là cần.
“4. Phải coi là được phép (licite) và xứng hợp (convenable) việc cúi đầu và tất cả những biểu lộ khác có tính cách tôn trọng dân sự trước những người quá cố hay hình ảnh và bài vị mang tên họ.
“Đàng khác, các Hồng y nhận thấy lời thề về nghi điển Trung Hoa do đức Bênêđitô XIV truyền dạy trong hiến chế Ex quo singulari ngày 11-7-1742 cho các linh mục trong đế quốc Trung Hoa và các vùng lân cận hoặc tiếp giáp, không còn hợp với các nguyên tắc hướng dẫn mà Bộ Truyền giáo mới công bố. Ngày nay lời tuyên thệ đó như phương thế kỷ luật, trở nên tuyệt đối dư thừa, vì thực tế như mọi người biết, các cuộc tranh luận xưa về nghi điển Trung Hoa đã chấm dứt, và các thừa sai cũng như các linh mục khác chẳng còn bị bó buộc phải tuyên thệ để vâng phục mau mắn với tình con thảo đối với Toà thánh. Vậy, [các hồng y] quyết định bãi bỏ lời thề đó ở tất cả nơi nào còn thi hành, ở Trung Hoa, hoặc các nơi khác. Dĩ nhiên, tất cả các chỉ dạy khác của đức Bênêđitô XIV vẫn còn giá trị, nếu chưa được thay đổi do các huấn thị mới đây, và đặc biệt là việc cấm tranh tụng về các vấn đề nghi điển Trung Hoa.
“Trong cuộc triều yết ngày 7-12-1939, những quyết định của các Hồng y đã được đệ trình lên đức Piô XII [36] do Hồng y Bộ trưởng Bộ Truyền giáo cùng với chữ ký của ngài; ĐTC đã chấp thuận hoàn toàn và đã phê chuẩn.
“Ban hành tại Thánh Bộ Truyền giáo,
Roma, ngày 8-12- 1939, ngày lễ Đức Mẹ Vô nhiễm.
“Hồng y Phêrô Fumasoni Biondi,
Bộ Trưởng Thánh Bộ Truyền giáo
“Thư ký Celsus Costantini,
Tổng Gm hiệu toà Theodos”.