Lễ Mình Máu Thánh Chúa Giê-Su – Sự Sống Từ Quà Tặng Sự Sống

Trong Thân xác chí thánh, Chúa Giê su đã đến cứu chuộc con người và tái tạo Vũ trụ. Ngài xây dựng Hội Thánh bằng cách trao ban Thánh Thần của để mở ra sự sống và nhờ đó, Vĩnh cửu nẩy mầm trong thân xác chúng ta.

Sách Đệ Nhị Luật 8,2-3.14b-16a.

Mô sê đang hấp hối. Ông nhắc lại cho dân các thử thách quá khứ trong suốt 40 năm lang thang trong sa mạc để giúp họ xác tín rằng Thiên Chúa thử thách họ cũng là Thiên Chúa đã ban xuống cho họ dư đầy ơn thiêng. Chính vì thế mà những thử thách chúng ta chịu đựng là nguồn phát sinh mọi ân sủng. Nếu không chịu cảnh đói khát trong sa mạc, thì dân Híp pri đã không có Man na, và Nước thần thiêng từ tảng đá trào ra. Chúng ta hãy cám tạ Chúa đã ban cho chúng ta Mình và Máu Ngài để xua đi cơn đói khát của chúng ta.

Thánh Vịnh 147

Thiên Chúa tuôn đổ muôn ơn lành và tình yêu của Ngài trên chúng ta. Chúng ta hãy lớn tiếng tung hô lòng yêu thương vô bờ của Ngài.

Thư 1 Cô rin tô 10,16-17

Thánh Phao lô nói đến sự Hiệp Thông liên kết chúng ta bằng một liên kết có một không hai với Thân Mình và Máu Đức Ki tô. Sự liên kết ấy bền chặt đến nỗi tất cả chúng ta cùng với Đức Ki tô hợp thành một Thân Thể độc nhất là Giáo Hội.

Tin mừng: Ga 6,51-58

NGỮ CẢNH

Đoạn văn nầy kết thúc giáo huấn về Bánh ban sự sống (6,16-59). Trước phản ứng tiêu cực của người Do thái, Chúa Giê su một lần nữa giải thích rộng rãi cho họ hiểu rằng Ngài chính là Bánh ban sự sống đời đời cho tất cả những ai tin vào Ngài.

Có thể đọc theo cấu trúc sau đây:

– c. 51: Lời khẳng định của Chúa Giê su: Ngài là Bánh hằng sống từ trời xuống.

– c. 52: Phản ứng của người do thái làm tiền đề cho khai triển tiếp theo.

– cc 54-58: Chính Chúa Giê su là bánh ban sự sống cho những ai tin và ăn Ngài.

TÌM HIỂU

Thịt: Chúa Giê su xác định Ngài là bánh theo nghĩa nào: ngang qua xác thân Ngài hiến ban cho chúng ta. Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, thịt là thành phần làm nên con người, dấu chỉ sự mỏng giòn của con người, nghĩa là số phận phải chết. Ngôi Lời hoá thân thành nhục thể đã mặc lấy và sống thân phận con người cho đến tận cùng.

Dù bất lực, nhưng thịt là nguyên lí của sự hiệp thông. Thánh Gioan nói về Ngôi Lời trở thành nhục thể như sau: “Ngài đến cư ngụ giữa chúng ta” (1,14). Con người đầu tiên nói về người đàn bà mà Thiên Chúa giới thiệu: “Phen nầy, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (Stk 2,23). Lời ấy không chỉ nói đến sự gần gủi liên hệ huyết thống mà còn nói đến một cội nguồn, một số phận, một bản chất chung. Khi nhận lấy sự yếu hèn của chúng ta, và kết hiệp với chúng ta, Chúa Giê su trở nên bánh nuôi chúng ta.

Thế gian: hành động nầy mang một tầm mức phổ quát (Ga: “trong thế gian”; Mc 14,24; Mt 26,28: “cho muôn người”).

Làm sao?: ngắt đọan cuối cùng: người do thái luôn luôn hiểu sai, bởi vì họ không thể tự đặt mình trên bình diện đức tin. Theo thói quen, Chúa Giê su sẽ không trả lời: giáo huấn nầy sẽ được cộng đoàn ki tô hữu của Gioan hiểu, nhưng không thể quan niệm được rằng người Do thái, trước khi Chúa Giê su chết lại có thể hiểu và chấp nhận một diễn từ như vậy.

Nếu các ông không ăn thịt: Chúa Giê su hiến ban chính mình thì chưa đủ, còn cần phải được tiếp nhận với đức tin. Một chiếc bánh chỉ có thể có ích lợi nếu được ăn. Việc Ngôi Lời đi vào trong xác thịt của chúng ta chỉ ban cho chúng ta sự sống nếu chúng ta tin rằng Ngài thông hiệp sâu xa với sự yếu hèn của chúng ta và ngang qua cái chết của Ngài ban cho chúng ta sự sống.

Máu: “Thịt và máu” là bản thể con người xét trong toàn bộ. Có lẽ tác giả tin mừng muốn nói rằng cần phải chấp nhận Chúa Giê su trong tất cả những gì mà cuộc sống nhân loại của Ngài mạc khải.

Nhưng máu còn là sự sống (Stk 9,4-5). Thánh Kinh không những cấm đổ máu, mà còn cấm dùng máu như lương thực bởi vì sự sống thuộc về một mình Thiên Chúa mà thôi. Điều cấm đoán ấy đã bị Chúa Giê su bãi bỏ khi Ngài đảo ngược hoàn toàn: toàn bộ sự sống không chỉ phát xuất từ Thiên Chúa, nhưng sự sống của Thiên Chúa còn đổ xuống trong chúng ta và trao ban cho chúng ta.

Chúa Giê su đòi hỏi các môn đệ của Ngài đi vào trong sự thông hiệp với sự sống của Ngài được trao ban bằng máu Ngài đổ ra, và biến thành lương thực nuôi dưỡng sự sống, nền tảng của lòng tin. Ngài đòi hỏi phải được đồng hoá giống như người ta tiêu hoá bánh và rượu để có sự sống đời đời.

Ăn: động từ dùng ở đây theo một ý nghĩa rất mạnh, hết sức cụ thể và có nghĩa là “nhai”. Bản văn không sợ tính cách thực tế của các dấu chỉ. Các dấu chỉ nầy được biến thành nghi thức chính yếu của Bí Tích Thánh Thể.

Thật của ăn: chúng ta được mời gọi vượt qua các dấu chỉ để đạt tới một ngôi vị sống trao ban chính mình. Chúa Giê su là “ánh sáng thật” (1,9), “là cây nho thật” (15,1). Cũng bằng cách ấy, Ngài ngự trong Bí Tích Thánh Thể như  “bánh thật” (15,1). Bánh ấy đích thị là bánh và có nuôi sống tốt hơn bánh mà ta vẫn dùng hằng ngày.

Ở lại: Ai cho thấy đức tin của mình khi ăn bánh nầy, thì được kết hợp với Đức Ki tô trong suốt cuộc sống hằng ngày và sau đó trong cuộc sống vĩnh cửu. X. 14,23;15,4.

Chúa Cha: Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy” (5,26). Sự sống mà Chúa Giê su thông ban cho loài người bắt nguồn từ nơi Cha. Ai nuôi sống bằng thịt và máu Ngài sẽ sống chính sự sống của Thiên Chúa.

Bánh: Chúa Giê su quay trở lại sự so sánh với manna như trong đoạn 6,49-50. Ngài là bánh. Nhưng bánh nầy có chỉ có nghĩa và hiệu nghiệm với người nhận lãnh bằng đức tin và hoàn toàn chấp nhận sự sống được Con Người trao ban. Bấy giờ, khác với người Híp pri trong sa mạc, người ấy sẽ được sống muôn đời.

SỨ ĐIỆP

Chủ nhật hôm nay, chúng ta mừng lễ Thánh Thể, còn gọi là lễ Mình và Máu Thánh Đức Ki tô. Các bài đọc Kinh thánh mang lại cho chúng ta một ánh sáng mới về ý nghĩa của thánh lễ, khẳng định rằng Thánh Thể là một lương thực. Chúa Giê su loan báo cho chúng ta Ngài đích thực là Bánh hằng sống từ trời xuống. Diễn từ về Bánh gồm những lời rất siêu phàm và mạnh mẽ khiến các thính giả đã không hiểu được. Đối với họ, điều Ngài nói thật sự gây sốc, nên một số đã bỏ đi, không còn tiếp tục theo Ngài nữa. Thấy vậy, Chúa Giê su liền quay sang hỏi nhóm Mười hai: “Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không?”. Ngay lúc đó, Phê rô đại diện anh em dõng dạc tuyên bố: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con đi với ai? Thầy có những lời ban sự sống đời đời”.

Lời khẳng định dứt khoát ấy cũng hướng đến cho từng người chúng ta hôm nay. Đối với nhiều người Do thái, những lời Chúa Giê su nói thật sống sượng, nhưng đối với các tín hữu, thì đó là những lời đem lại sự sống. Bản thân Phê rô chắc cũng không hiểu gì hơn người khác, nhưng bù lại, ông trung thành đặt trọn niềm tin tưởng và cương quết theo chân Đức Ki tô cho đến cùng. Ông chỉ cho chúng ta con đường, và cho chúng ta biết rằng điều quan trọng nhất là sống những lời ấy, để những lời ấy đi vào tâm hồn hơn là tìm mọi cách giải thích chúng. Tìm kiếm lời giải thích Thánh Thể là một điều tốt, nhưng chia sẻ, để cho Đức Ki tô lôi kéo chúng ta vào mầu nhiệm sự sống của Ngài lại là điều tốt hơn.

Cộng đòan Ki tô hữu khắp nơi thường có thói quen họp nhau ngày Chủ nhật để cử hành Thánh Thể. Ngày nay, ở nhiều nước phương Tây, cuộc gặp gỡ hằng tuần ấy đã bị lãng quên. Trái lại ở những nước nghèo, nhà thờ vẫn luôn đầy ắp người dù nhiều khi họ phải đi bộ thật xa để đến đó. Chúa Giê su đã nhìn thấy trước hạnh phúc dành cho những người ấy: “Phúc cho những người nghèo khó trong tâm hồn, vì Nước Trời là của họ”. Những người nghèo đó thật có phúc, không phải vì sự nghèo khổ của họ, nhưng bởi vì họ biết mở lòng ra đón nhận ơn ban của Thiên Chúa. Đối với họ, ngày Chủ nhật thật sự là ngày của Chúa, ưu tiên trên mọi hoạt động khác.

Thật vậy, chính Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến để giới thiệu và ban phát lương thực của Ngài. Khi xưa, Ngài đã nuôi sống dân riêng trong sa mạc, đã ban cho họ bánh ăn, để tiếp tục hành trình tiến về Đất Hứa. Ngày nay, chính Mình Máu Thánh Chúa Giê su giúp cho Ki tô hữu được lớn lên. Tấm bánh mà Chúa Giê su ban cho chúng ta lấp đầy những khát vọng chính yếu trong tâm hồn là được thông hiệp với Thiên Chúa: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”. Điều Ngài muốn không gì khác hơn là được hiện diện trong cuộc đời chúng ta bằng tình yêu và niềm vui của Ngài. Với Ngài, chúng ta không còn cô đơn nữa. Ngài chỉ cho chúng ta con đường. Lương thực mà Ngài ban cho chúng ta là “nguồn suối và đỉnh điểm” của cuộc sống Ki tô hữu và việc rao giảng phúc âm. Nó là chiếc cầu huyền nhiệm cho phép chúng ta hiệp thông với tất cả những người chung quanh.

Vì thế, tiếp nhận ơn ban Thánh Thể trước tiên chính là ra khỏi lối sống cằn cỗi của chúng ta để sống cuộc gặp gỡ đó như một thời gian chính yếu. Hằng tuần, chính Đức Ki tô mời gọi chúng ta đến bàn tiệc của Ngài. Bánh mà Chúa Giê su ban cho chúng ta chính là lương thực đem lại sự sống đời đời giúp chúng ta lớn mạnh và tăng trưởng. Chúng ta phải làm tất cả mọi sự để mỗi tiệc Thánh Thể thực sự là Biến cố quan trọng nhất trong tuần sống của chúng ta. Lúc soạn thảo tin mừng, Thánh Gioan đã phải đau khổ vì thái độ hờ hững của các cộng đòan đối với tiệc Thánh Thể. Bấy giờ, Ngài mạnh mẽ nhắc lại cho họ điều mà Chúa Giê su đã nói với người Do thái ngày xưa: “Ta là bánh từ trời xuống”..

Nếu chúng ta thực sự tiếp nhận Đức Ki tô trong đời sống chúng ta, chắc chắn mọi sự sẽ đổi khác. Chúng ta hãy xin Ngài dạy cho chúng ta biết cách hiệp thông và yêu mến tất cả những người chung quanh như Ngài và với Ngài.

ĐÀO SÂU

BÁNH BAN SỰ SỐNG

Đnl 8,2-3 .14-16a Thiên Chúa nuôi sống dân Người

Tv 147,12 Nào tôn vinh Chúa!

1Cr 10,16-17 Bí tích Hiệp nhất

Ga 6,51-58 Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta

1. HỎI: Các bài đọc được liên kết theo chủ đề gì?

THƯA: BÁNH BAN SỰ SỐNG. Man-na ngày xưa là lương thực Thiên Chúa nuôi dân Người trong sa mạc (Bđ1) là tiền ảnh báo trước Bánh là Mình Đức Ki-tô (BTM) ban cho nhân loại để được hiệp nhất trong thân thể Ngài (Bđ2).

2. HỎI: Bối cảnh bài đọc một (Đnl 8,2-3 .14-16a) như thế nào?

THƯA: Sau 40 năm lang thang trong vùng sa mạc Si-nai, cuối cùng dân Ít-ra-ên  cũng tới bờ phía đông sông Gio-đan, ngưỡng cửa vào vùng đất mà Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ họ. Trong giờ phút hấp hối, Mô-sê cố gắng nhắc nhở cho dân đừng quên những kì công Người đã làm cho họ, vì biết rằng sự thay đổi bất ngờ từ cuộc sống gian khổ đến cuộc sống ấm no và bình an có thể khiến dân mờ mắt mà quên Thiên Chúa.

3. HỎI: Bài đọc một có nội dung như thế nào?

THƯA: Bài đọc một trích từ sách Đệ Nhị Luật ghi lại diễn từ của ông Mô-sê nhắc cho toàn dân nhớ lại cuộc hành trình bốn mươi năm đầy thử thách trong sa mạc trên đường tiến về đất hứa để giúp họ xác tín rằng Thiên Chúa thử thách họ cũng là Thiên Chúa đã ban xuống cho họ dư đầy ơn thiêng

4. HỎI: Thiên Chúa đã hứa gì với họ?

THƯA: Thiên Chúa đã hứa luôn luôn ở giữa dân Người, và Người đã giữ lời hứa trong suốt cuộc hành trình qua cột mây ban ngày và cột lửa ban đêm. Chính sự hiện diện đầy yêu thương ấy đã giúp dân vượt thắng tất cả mọi khó khăn thử thách.

5. HỎI: Thời gian thử thách ấy có nghĩa gì?

THƯA: Mô-sê đã dạy dân nhìn những thử thách ấy như là thời gian Thiên Chúa gần gủi với họ để huấn luyện họ: “Anh em hãy nhớ lại tất cả con đường mà Đức chúa, Thiên Chúa của anh em đã dẫn anh em đi suốt bốn mươi năm trong sa mạc, đã bắt anh em cùng cực; như vậy Người thử thách anh em cho biết lòng dạ anh em” (Đnl 8,2).

6. HỎI: Đâu là những kì công lớn lao mà Mô-sê nhắc lại?

THƯA: Đó là việc Thiên Chúa đưa dân Người vượt qua Biển đỏ để thoát ách nô lệ Pha-ra-ô. Ngoài ra, Người còn ban cho họ man-na làm của ăn mà họ và cha ông họ chưa từng biết tới, để tỏ cho họ thấy rằng: “Con người sống không nguyên bởi bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (x. Đnl 8,3).  

7. HỎI: Những thử thách ấy có ý nghĩa gì?

THƯA: Những thử thách dạy dân hai điều: một là sự nghèo khó mà họ phải trải qua và hai là lòng yêu thương của Thiên Chúa lúc nào cũng quan tâm đến họ.

8. HỎI: Mục tiêu cuối cùng của Thiên Chúa là gi?

THƯA: Mục tiêu cuối cùng của Thiên Chúa là đưa dân vào đất Hứa. Qua hình ảnh ấy, Thiên Chúa muốn cho Dân Người được tự do, nhận biết mình lệ thuộc vào Thiên Chúa để đừng trở thành nô lệ cho một Thần nào khác.

9. HỎI: Nội dung bài đọc 2 (1Cr 10,16-17) như thế nào?

THƯA: Thánh Phao-lô nhắc cho người tín hữu nhớ rằng tiệc Thánh Thể cho chúng ta được thông phần vào Mình và Máu Thánh Đức Ki-tô. Đó là mầu nhiệm cao vời của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại.

10. HỎI: Ngữ cảnh bài tin mừng (Ga 6,51-58) như thế nào?

THƯA: Đoạn tin mừng là trích đoạn diễn từ về bánh của Đức Giê-su trong Hội đường Ca-phác-na-um ghi lại trong chương 6 tin mừng thánh Gio-an (6, 22-66) sau khi hóa bánh ra nhiều nuôi đám đông (6,1-15) và đi trên biển hồ đến với các môn đệ (16-21). Nghe những lời mạc khải lạ lùng về Ngài (53-58) người Do thái đã có những phản ứng tiêu cực dữ dội chống lại Ngài. Thậm chí có nhiều người đã bỏ Ngài (60-66). Vì thế diễn từ về Bánh tạo khúc quanh trong cuộc đời Đức Giê-su. Có 3 ý chính: 1) Tài khẳng định của Đức Giê-su: “Tôi là bánh hằng sống” (6,51); 2) Đức Giê-su triển khai đề tài (6,53-56) trước thắc mắc của người Do Thái (6,52) 3). Nền tảng của đề tài (6,57-58).

11. HỎI: “Ta là bánh hằng sống” có nghĩa gì?

THƯA: Đức Giê-su là bánh hằng sống có nghĩa là Ngài là Đấng có sự sống thần linh trong mình, là chính sự sống nên Ngài có thể ban sự sống thần linh cho những ai tin và đến với Ngài.

12. HỎI: Đức Giê-su muốn nói về sự sống nào?

THƯA: Khi nói: “Ai ăn bánh nầy, sẽ được sống đời đời”, Đức Giê-su muốn nói đến sự sống đích thực và sung mãn. Đó không phải là sự sống thể xác nhưng là sự sống thần linh mà Thiên Chúa đã ban cho con người khi tạo dựng, và đã được Đức Ki tô chuộc lại sau khi con người đã đánh mất vì bất phục tùng.

13. HỎI: Đức Giê-su là bánh sự sống như thế nào?

THƯA: Trong cái chết hi tế trên thập giá, Ngài hiến mình cho thế gian được sống và ban cho chúng ta thịt Ngài làm của ăn và máu Ngài làm của uống.

14. HỎI: Hi tế là gì?

THƯA: Cũng như nhiều dân tộc khác, người Híp-ri cũng có tục dâng hi tế để thờ phượng Thần linh của mình là Thiên Chúa. Người xưa cho rằng để tới gần và thông hiệp với Thần linh, người ta cần phải giết chết để hoàn sự sống cho Người. Nhưng ngay từ lúc đầu, Thiên Chúa đã cấm dân không được giết người để tế lễ cho Người.

15. HỎI: Điều kiện nào để được lại sự sống đời đời ấy?

THƯA: Đức Giê-su nói đến điều kiện ấy qua khẳng định: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình”. Như thế, để được lại sự sống thần linh, sự sống đích thực, con người phải ăn thịt và uống máu Đức Giê-su. Qua đó, Ngài muốn ám chỉ đến Bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập vào cuối đời như là dấu chứng tình yêu cứu độ.

16. HỎI: Người Do thái phản ứng ra sao trước những lời Đức Giê-su nói?

THƯA: Người Do thái thắc mắc và phản đối dữ dội vì họ không thể nào hiểu được “làm sao ông nầy có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” Họ cảm thấy thật chướng tai vì Lề luật cấm uống máu bất cứ loài vật nào: “Bất cứ ai [..] ăn huyết bất kì thứ nào, thì Ta sẽ quay lại chống kẻ đã ăn huyết ấy, và Ta sẽ khai trừ nó khỏi dân nó” (Lv 17,10).

17. HỎI: Thánh Gio-an đã nghĩ đến điều gì khi viết đoạn tin mừng nầy?

THƯA: Chắc chắn Thánh Gio-an đã nghĩ đến bí tích Thánh Thể. Ngài tin rằng bánh và rượu trong tiệc Tạ Ơn chính là Thịt và Máu của Đức Giê-su. Ai đến lãnh nhận Mình và Máu Ngài sẽ được sống đời đời.

18. HỎI: “Ở lại trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy” có nghĩa là gì?

THƯA: Đức Giê-su muốn nói đến sự kết hiệp mật thiết giữa Ngài và kẻ tiếp rước Ngài. Khi ăn thịt và uống máu Ngài nơi bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu đón nhận sự sống của Ngài tuôn chảy trong tâm hồn họ, và Đức Ki-tô lưu lại nơi người ấy như người bạn thân tình chia sẻ yêu thương. Hạnh phúc ấy là bước khởi đầu cho cuộc sống vĩnh cửu.

19. HỎI: Tại sao Đức Giê-su lại tự so sánh mình với man-na?

THƯA: Đây là lần thứ ba Đức Giê-su tự so sánh mình với Man-na (x. cc. 31-32; 49). Đức Giê-su có ý so sánh như thế để cho người Do thái hiểu rõ giá trị cao vời của Bánh Thánh Thể. Cả hai cùng có một nguồn gốc, đều từ trời xuống, nhưng hiệu năng khác xa: man-na nuôi sống nhưng không ban sự sống đời đời, còn Bánh Thánh Thể mang lại sự sống đời đời, sự sống mà loài người ao ước.

20. HỎI: Sứ điệp Lời Chúa như thế nào?

THƯA: 1. Bí tích Thánh thể là nguồn mạch và chóp đỉnh đời sống ki tô hữu vì đó là biểu hiện tình yêu cao cả nhật của Đức Giê-su cho chúng ta. Vì thê chúng ta hãy: 2. Siêng năng tham dự Thánh Lễ và rước Mình Máu Chúa Giê-su với lòng yêu mến và biết ơn. 3. Nỗ lực xây dựng và phát triển sự hiệp thông yêu thương và san sẻ tinh thần cũng như vật chất trong cộng đoàn và với những người sống chung quanh.

GLCG 1337 610 611. Đức Giê-su yêu thương những kẻ thuộc về mình và yêu thương họ đến cùng. Khi biết Giờ đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Người rửa chân cho họ trong bữa Tiệc Ly và ban cho họ giới răn yêu thương (x. Ga 13,1-17). Để trao lại cho họ bảo chứng tình yêu này và cho họ được tham dự vào cuộc Vượt Qua của mình, Người thiết lập bí tích Thánh Thể để tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh của Người và truyền lệnh cho các tông đồ mà “Người đã đặt làm tư tế của Giao Ước Mới, cử hành bí tích này cho đến khi Người lại đến” (x. CĐ Trentô: DS 1740). 1384 2835. Chúa khẩn thiết kêu mời chúng ta đón rướùc Người trong bí tích Thánh Thể : “Thật, Tôi bảo thật các ông : nếu các ông không ăn thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình” (Ga 6,53).

Phục Vụ Lời ĐCV Xuân Lộc

Comments are closed.