Chú giải (l’herménneutique) là một từ ngữ được vãi tung tóe lên trên tất cả mọi tấm phông vẽ thần học. Chú giải là nghệ thuật hiểu và giải thích. Người ta có thể ghi nhận được có ba khuynh hướng: hiểu những bản văn tùy theo môi trường gốc của chúng; hiểu thực tại hiện sinh của con người trong tương quan hiện sinh với Lời Thiên Chúa; hiểu thực tại đang trở thành có tính chất chính trị – xã hội trên cơ sở chân trời của những lời hứa. Một vài tên tuổi nổi bật: Bultmann, Ebeling, Schillebeeckx, Moltmann, Ricoeur và những người khác.
Đi tìm ý nghĩa
Theo nghĩa nguyên khởi, chú giải tự đồng hóa với việc giải thích đúng những bản văn thánh: Hermès là người thông ngôn của các thần. Cần phải nhận rõ điều này: so với cội nguồn, chúng ta đang ở trên một miền văn hóa xa lạ, xa xôi, biết bao cách trở quan san, thời gian cũng như không gian và còn hơn thế nữa, giữa Lời Thiên Chúa và chúng ta còn cách xa nhau, ngăn cách bởi cả một bức tường dày là một bản văn do con người soạn thảo. Chỉ có một cách để lân la đến được với Lời này và vượt qua cái “hố hiểm nghèo” ngăn cách chúng ta với Lời Thiên Chúa là phải vượt qua ba lớp rào chắn: trước tiên là chính thủ bản chuyên chở Lời đó; rồi đến hoàn cảnh nảy sinh ra Lời đó và cuối cùng là chính người chứng nhân đã diễn đạt Lời đó thông qua lăng kính chủ quan của mình. Ý nghĩa chỉ được tiết lộ ra cho người nào bằng lòng luồn lách vòng vo chính giữa những khác biệt đó.
Sai lầm của khuynh hướng duy căn (fondamentalisme) cho rằng người ta chỉ cần cầm lấy bản văn và đọc là tức khắc rút ra được Lời Thiên Chúa phát xuất từ tiền đề cho rằng giữa Lời (của Thiên Chúa) và bản văn (của con người) có một sự tương ứng hoàn toàn. Những bản văn nói về Thiên Chúa là những thủ bản được viết ra trong những hoàn cảnh nhất định: chúng nhằm diễn tả một kinh nghiệm tin trong đó một chứng nhân đọc ra được dấu hiện của một hành động của Thiên Chúa. Đi sùng bái cái được viết ra là biến bản văn thành một linh vật, một cái tuyệt đối, một ngẫu tượng. Khuyng hướng duy căn sa vào con đường của một sự lặp đi lặp lại nghèo nàn khô khốc, xa lạ với nguyên động lực luôn luôn sinh động của Lời.
Ngược lại, chú giải đề xuất nghệ thuật khám phá nội dung ý nghĩa của Lời hằng sống của Thiên Chúa, xuyên qua độ dày đậm đặc và đầy khuyết điểm của ngôn ngữ loài người. Cùng với sự phát triển của những ngành khoa học về ngôn ngữ, khoa chú giải thấy nỗ lực của mình được canh tân và bành trướng thêm ra. Phạm vi hoạt động của khoa chú giải, hơn nữa, còn vượt qua ranh giới Thánh Kinh: đến cả với những bản văn cổ của Kitô – giáo, đến những tín điều mà hình thức diễn đạt không hẳn là những sản phẩm lệ thuộc thời gian, đến những cách thức Giáo Hội đọc và thực hành tiếp sau đó, bao giờ cũng lệ thuộc lịch sử.
Tính hiện hành của Lời Thiên Chúa
Nếu như “chú giải về nguồn gốc” là một nỗ lực không thể có được, tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại đó thôi, vẫn chưa đủ. Còn cần phải tìm cho ra chân lý hiện hành của Lời Thiên Chúa. Theo một nghĩa thứ hai, chú giải cho thấy toàn bộ nỗ lực cố gắng thần học là làm sao phát hiện Lời Thiên Chúa trong bối cảnh hiện tại của con người. Làm thế nào để nói lại được ý nghĩa của Lời đó cho chúng ta ngày hôm nay? Làm sao thích nghi Lời đó trong hoàn cảnh chúng ta hiện tại? Làm thế nào trình bày Lời đó ra trong văn hóa của chúng ta (hoặc trong những nền văn hóa khác)? Nên nhớ rằng Hermès, người thông ngôn của các thần, đồng thời cũng là bậc thầy trong khoa hùng biện và am tường tất cả mọi nền văn hóa.
Chính Bultmann đã khai phá ra con đường này: Bultmann, để lân la đến Lời Thiên Chúa, đã tháo gỡ tách bạch thực tại hiện sinh của con người ra. Ngoài ra cũng còn những người khác đã mạo hiểm dấn thân vào con đường này: Rahner, Ebeling vv…, tuy những kết quả đạt được không đồng đều, nhưng họ đều xác tín rằng chỉ có một sự hiểu biết đích thực về con người trong hoàn cảnh hiện sinh của nó, trong cấu trúc tính thể của nó, trong ngôn ngữ của nó, mới có thể lân la đến gần được ý nghĩa của Lời Thiên Chúa.
Dù để giải thích Lời Thiên Chúa, họ đã dùng những thông số nào, những nhà thần học này đều muốn giúp con người thực hiện biến cố vượt qua để hướng về Đấng hoàn tất ý nghĩa của thực tại hiện sinh của họ. Các nhà thần học này đều nhất trí vượt qua khuôn khổ chật hẹp của lối giải thích cứng ngắc các bản văn theo một thứ khuynh hướng khoa học thực nghiệm, lối giải thích gạt con người ra ngoài cuộc và đặt con người vào trong tư thế duy nhất là kẻ bị chất vấn. Trên thực tế lại đã chẳng rất thường xuyên xảy ra chuyện người ta để cho các bản văn lệ thuộc vào cách hiểu của con người đấy sao? Ricoeur ý thức rõ về nguy cơ đó. Để vượt qua được nguy cơ đó, cần phải không ngừng chạy vòng vo loanh quanh từ cực này qua cực khác, liên tục nhảy từ nhãn giới Lời qua thực tại hiện sinh, vì ý nghĩa của chúng cấu kết hỗ tương lẫn nhau. Đó chính là điều mà nối gót Bultmann “hiện tượng chú giải” hiện đang mời gọi.
Tính hiệu năng của Lời trong lịch sử
Khoa chú giải ngày nay đảm nhiệm thêm một trách nhiệm mới liên quan đến chiều kích tập thể của nhân loại. Cùng với Moltmann và những khuynh hướng thần học chính trị, một thế hệ thứ ba các nhà chú giải xuất hiện. Chuyển hướng trọng tâm từ chính thuyết (orthodoxie) qua chính hành (orthopraxie), từ một thứ Kitô giáo là “học thuyết” sang một thứ Kitô giáo như “thực hành”. Ở nơi từng giây phút lịch sử, cần phải xướng xuất một kiểu thực hành vẫn chưa từng thấy, mới mẻ, nhằm đáp ứng đúng hoàn cảnh hiện tại, do Tin Mừng gợi hứng, Tin Mừng mà vẫn mang trong mình nội dung đó, tuy dưới dạng tiềm thức chứ chưa là hiện thực.
Một ngày kia, thấy cuốn sách Thánh bị cột chặt vào nơi giảng đài bằng một dây xích, chàng Luther trẻ đã tự hứa với lòng mình quyết đem giao trả nó lại cho quảng đại quần chúng. Khoa chú giải vẫn coi nỗ lực chính của mình là giải phóng cho Lời Thiên Chúa để Lời đó lấy lại tính hiệu năng của mình ở trong lịch sử. Khoa chú giải vẫn đứng lên chống lại những lệch hướng khả dĩ của mình khi bị đưa đẩy hướng về chỗ đưa ra những ý thức hệ đáng ngờ (chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa thực dân, những giai cấp thống trị, vv…) và giải thích Lời Thiên Chúa như sức mạnh phản kháng với lời hứa giải phóng. Kitô – giáo thôi không còn là một mớ lý thuyết suông, mà là một chân lý “để thực hiện” (une vérité “à faire”).
Theo nghĩa này, chú giải trở thành một trường học dạy phải có thái độ biết nghi ngờ, vạch trần ra ý đồ nhào nặn các bản văn để nhằm mục đích phục vụ lợi ích của giai cấp; chú giải trở thành người chiến sĩ đấu tranh đòi về cho các bản văn sức mạnh mổ xẻ và phá đổ của chúng; chú giải trở thành người phải có lập trường dứt khoát đòi trả lại các bản văn cho những người yếu thế và bị bóc lột; chú giải trở thành ngôn sứ, giải phóng các bản văn ra khỏi tình trạng chỉ là những lời động viên suông, chỉ có chức năng không tưởng, chỉ mang phẩm tính là những lời hứa suông, để xây dựng một tương lai khác. Lời Thiên Chúa không phải là chữ chết. Từ nguyên thủy là hành động, như Faust nói.
Những mũi khoan thăm dò trong hiện trường chú giải cho người ta cái cảm tưởng là hạn từ đó có một trương trường vô cùng vô tận không thể nào kiểm soát nổi. Chí ít, chúng ta thấy được rằng những vấn đề đã thay đổi trọng tâm: chân lý lịch sử, nội dung ý nghĩa hiện sinh, tính chất xác thực mang màu sắc xã hội. Một điều chắc chắn: Lời Thiên Chúa siêu vượt lên trên vượt ra ngoài khuôn khổ chật hẹp của một bản văn đã trở thành đông cứng và ngày nay vẫn giữa được đặc tính hoạt năng của mình. Lời đó không hẳn là một cái “kho chứa hàng mà người ta chỉ có việc quản lý mà thôi” (dépôt à gèrer) cho bằng một hành trình mạo hiểm vẫn chưa hoàn tất. Chúng ta liệu có bị kết án là đã đi vào con đường lầm lạc không đây? Vẫn còn thiếu, chưa đủ nếu chúng ta chỉ có một việc công nhận được phép chỉ có một tình trạng đa dạng nào đó trong những giải thích và những thực hành. Nếu như không có được “sợi chỉ của Ariane” không thể nào dẫn đưa sai lối lạc đường, thì ít ra cũng phải có những giới hạn không cho phép vượt qua. Nếu vượt qua những giới hạn đó, những nỗ lực chú giải sẽ mất phương hướng vì chúng sẽ sa vào tình trạng mâu thuẫn với những chứng nhân đích thực nhất của đức tin ở trong quá khứ và mâu thuẫn với lề lối thực hành của người chứng nhân ưu việt: Đức Giêsu Kitô.
Marcel Neusch
Trích: (Bruno Chenu – Marcel Neusch, Đến thăm xứ sở thần học, Lm. Nguyễn Thiên Cung – chuyển ngữ, Niềm Tin 2018, tr 197-202).