Việc Làm Dấu Thánh Giá

          Dấu Thánh Giá là cử chỉ mà người Kitô hữu chân chính làm khi cầu nguyện, khi bắt đầu một công việc và trong những giây phút quan trọng để nhớ đến Chúa. Cử chỉ này là một lời tuyên xưng và cũng hàm chứa một sự sám hối. Với Dấu Thánh Giá, người ta tuyên xưng rằng cái chết đã bị đánh bại bởi sự Chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô. Vì vậy Thánh Giá không là dấu chỉ của sự chết và sự kết thúc nhưng là dấu chỉ của sự sống, bởi vì nó thực sự liên kết những người tin với chính nguồn sự sống. Dấu Thánh giá nhắc nhớ đến sự sám hối và mời gọi mọi người tham gia vào sự sống được biến đổi, được tiên báo bởi sự Phục Sinh của Đức Kitô, đó là sự sống vĩnh cửu.

          Dấu Thánh Giá không phải là một cử chỉ rời rạc và mê tín. Ý nghĩa thực sự của nó được phát xuất từ một đức tin sâu thẳm và bởi một con tim hối lỗi. Điều này thật như một cử chỉ của xác thân cầu nguyên với cả tâm hồn: ơn cứu chuộc của Đức Kitô tác động lên tất cả xác hồn.

          Các giáo phụ cũng đã nói nhiều về việc làm Dấu Thánh Giá trong các tác phẩm viết về Dấu Thánh Giá. Đối với các ngài, dấu chỉ này không mang lại ơn cứu độ mà nó hàm chứa bên trong nếu không được kèm theo bởi một ý nghĩa sâu xa của việc ăn năn và bởi việc nhắc nhớ về cuộc Khổ Nạn – Phục Sinh của Đức Kitô. Chỉ trong cách đó Dấu Chỉ Này được nội tâm hóa và làm tiêu tan những xấu xa, những điều gian ác đã thâm nhập vào trong tâm hồn của con người. Hành động chữa trị của Dấu Thánh Giá đã xua tan đi những bóng tối đang tồn tại, chiếu dọi vào tâm hồn luồng ánh sáng dẫn đưa con người vào một đời sống mới. Điều này gợi lên ý nghĩa nội tâm và hạnh phúc sâu xa, là dấu chỉ của một sự hiện diện mới, điều mà Giáo Hội gọi là Ân Sủng. Thực tại tội lỗi phân rẽ con người từ bên trong, gieo rắc sự đối nghịch và đau khổ, những tác hại của nó làm con người thảm hại như thế nào, cũng như thế ấy Ân Sủng nối kết con người bị xé nát, trao ban cho nó sự bình an và thanh thản. Vì vậy, Dấu Thánh Giá mở cánh cửa của tâm hồn con người hướng đến sự hiện diện chữa trị hữu hiệu của Ân Sủng Thiên Chúa, sự tiên báo về Nước Trời, nơi sẽ không còn tang chế và khóc lóc.

          Dưới đây là một số những trích dẫn của các giáo phụ nói về việc làm Dấu Thánh Giá:

 “Khi chúng ta đến, chúng ta đi, khi chúng ta mang dép, tắm hoặc trên bàn ăn, khi chúng ta thắp những ngọn nến, ngồi hoặc nghỉ ngơi, bất cứ bắt đầu công việc gì, chúng ta làm Dấu Thánh Giá[1]

Điếu này (chữ Tau – t ) có sự tương đồng với Dấu Thánh Giá, và lời tiên báo này (Ezech IX, 4) liên quan đến dấu hiệu các kitô hữu làm trên trán. Cử chỉ được làm bởi tất cả các tín hữu lúc bắt đầu một công việc và cách đặc biệt lúc bắt đầu những lời nguyện và những bài đọc Sách Thánh”[2]

Vì vậy, chúng ta không xấu hổ về Thánh Giá của Đức Kitô, …, nếu chúng ta làm dấu phía trước cách công khai, quỷ ma sẽ bị xua đuổi đang run rẩy trước Dấu Chỉ vương quyền này.Vì vậy chúng ta làm Dấu Chỉ Này khi chúng ta ăn và uống, khi chúng ta ngồi và nghỉ ngơi, khi chúng ta di chuyển, nói chuyện hoặc bước đi; chúng ta làm Dấu Chỉ Đó mỗi khi nói (để làm hiện diện) Đấng bị đóng đinh nơi trần gian, bây giờ ở trên trời”.[3]

Về những điều đã bị lên án nơi Thánh giá, không ai đã có khả năng làm ma quỷ sợ hãi ngoại trừ Đức Kitô, Đấng chịu đóng đinh vì chúng ta. Vì vậy khi ma quỷ thấy dấu chỉ của Thánh Giá này chúng rùng mình”.[4]

Có dấu chỉ nào khác của Đức Kitô nếu không là dấu Thánh Giá của Đức Kitô”.[5]

Sau dấu Thánh Giá, lập tức ân sủng mở ra và nối kết cách hài hòa tất cả các chi thể và tâm hồn, vì thế linh hồn tràn đấy sự vui sướng, và dường như một thanh niên mà không biết đến sự hiểm ác”.[6]

          Còn trong lịch sử, chúng ta thấy thói quen thực hành của Giáo Hội Chính Thống, Dấu Thánh Giá được làm bằng cách chụm ba ngón tay của bàn tay phải và hai ngón còn lại tự do. Dấu Chỉ Này là việc tuyên xưng sự hiệp nhất, mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa và hai bản tính (nhân tính và thiên tính) hợp nhất trong Đức Kitô không bị lẫn lộn giữa chúng (tín điều của công đồng Calcedonia). Bàn tay được sắp xếp như vậy chạm vào trán (nhân danh Cha), vào rốn (Con), vào vai phải (và Thánh) và vai trái (Thần).

                                                                 

          Bàn tay phải được chụm lại trong hai kiểu. Kiểu bên trái là cách dùng cổ xưa của người Nga, còn kiểu bên phải là cách dung phổ biến hơn trong Giáo Hội Chính Thống.

          Ở Tây Phương cũng đã có thói quen làm dấu theo cách của Giáo Hội Chính Thống. Chúng ta có hai chứng cứ về điều này:

          Thứ nhất: được suy ra từ một bức phù điêu của nhà thờ chính tòa Modena (thế kỷ XII), trong đó người ta thấy các tín hữu làm dấu Thánh giá với ba ngón tay, trong khi đó vị tư tế mặc áo choàng rảy nước thánh lên họ đang đọc một lời nguyện.

          Thứ hai: được cung cấp bởi đức giáo hoàng Innocenzo III (+ 1216), trong tác phẩm “De sacro altaris mysterio, lib. II, c. 45”, thuật lại rằng: “Dấu Thánh giá được thực hiện bởi ba ngón tay như vậy, để đưa từ phía trên xuống phía dưới, từ bên phải qua bên trái”.[7]

                                       Thánh Eliodoro (thế kỷ IV), bức tranh ghép (thế kỷ XII)

                                                           Nhà thờ chính tòa Torcello

          Cách làm dấu Thánh Giá này dần mất đi. Đến cuối thế kỷ XIII, người ta nhận thấy những tín hữu tây phương đã mất đi cách làm dấu này và việc chúc lành với bàn tay mở ra thay vì ba ngón tay chụm lại. Như vậy vào những thế kỷ trung cổ ba ngón tay từ từ đi đến chỗ được thay thế bởi bàn tay duỗi ra và đảo ngược sự di chuyển từ bên trái sang bên phải, không còn là từ bên phải sang bên trái. Cách thực hành này đã thấy được bắt đầu nơi dân chúng và sau đó đi vào trong cử hành Phụng Vụ với đỉnh cao là sự cải tổ (Đức Pio V) vào thế kỷ XVI. Đức Giáo Hoàng là người cuối cùng duy trì Dấu Thánh Giá truyền thống trong việc chúc lành theo nghi thức giáo hoàng và rồi bỏ đi sau đó một vài thâp kỷ.

 

Lm. Phêrô Hà Hương Giang

[1] Tertuliano (160 – 225), De Cor. Mil. III.

[2] T.III, Select. In Ezech. c. IX.

[3] San Crillo di Gerusalemme (315 -386), Catech., IV, n.14.

[4] San Crillo di Gerusalemme (315 -386), Catech., XII, n.22.

[5] Sant’Agostino (354 – 430), Tract. in Ioan. CXVIII, n. 5, T. III.

[6] San Macario l’Egiziano (300 – 390 Ad), Rom. IX.

[7] “Signum crucis tribus digitis esprimendum est, ita ut a superiori descendat in inferius et a dextra transeat ad sinistram”.

Comments are closed.