Thần học là gì? Thần học đã được cấu trúc như thế nào? Đâu là những yếu tố liên quan đến suy tư thần học? Đây là những câu hỏi có liên quan đến chủng sinh, cha xứ, thần học gia và tất cả mọi người đang ý thức về các thử thách văn hóa, tôn giáo và tri thức cho thần học ngày nay. Trong bài chia sẽ này chúng ta sẽ phân tích thần học qua lăng kính “cơ bản,” i.e., nhận diện các yếu tố và trở ngại mà đã tạo nên khuôn mặt phức tạp và đa dạng của Thần học Công Giáo hiện nay.
THẦN HỌC: BỘ MÔN SUY TƯ ĐA CHIỀU KÍCH
Nhìn qua lịch sử, thần học Kitô đã được khai triển song song với đường nét phát triển của nền văn hóa, tôn giáo và tri thức tây phương. Khởi đầu thần học chỉ là những phản ứng mang tính hộ giáo, cho dù muốn bảo vệ căn tính đặt thù của nhóm thiểu số đang cố gắng tồn tại và phát trỉển giữa lòng nền văn hóa cổ đại Hy lạp, nhưng cũng phải áp dụng phạm trù “logos” của văn hóa đó. Trong các đại học mới ra đời ở Trung Cổ thần học đã khẳng định chổ đứng mình như một khoa học, một loại tri thức đặt biệt, dùng các phạm trù triết học thời đó để khai triển đối tượng chính là Thiên Chúa và các chân lý được mặc khải. Trong thế kỷ 17-18, đứng trước nguy cơ bị giản lược hóa bởi tri thức luận một chiều của thời Ánh Sáng, thần học đã tìm được thế đứng trên nền tảng tri thức luận tiên nghiệm của Kant (Limit reason to make room for faith). Bước sang thế kỷ 19, dưới ảnh hưởng của phê bình lịch sử, thần học tự hiểu mình có sứ mạng nối kết bản chất chất của niềm tin tôn giáo với mạng lưới văn hóa mà qua đó tôn giáo được hình thành (Troetsch, Tubigen School, etc.). Ở thế kỷ 20, giữa hai thế chiến thần học đã đóng góp vào công cuộc đi tìm ý nghĩa và hy vọng cho cuộc sống đầy hận thù và tranh chấp (Barth, Tillich) qua “theologia crucis” và thần lý học. Như thế, qua một vài ví dụ trên đây chúng ta thấy mục đích và sứ mạng của thần học thì rất là thực tế. Thần học không thể thinh lặng hay đứng bên lề trước thay đổi thời cuộc. Thần học luôn được sáng tạo để đáp ứng nhu cầu nào đó, trong bối cảnh nào đó, với mục tiêu gióng lên tiếng nói và quan điểm của niềm tin Kitô trong một thế giới đa dạng và phức tạp.
Nói cách khác, thần học lãnh nhận sứ mạng giữ cho đức tin Kitô luôn được cập nhập hóa. Với ơn gọi “đức tin tìm kiếm sự hiểu biết” (Anselmo) thần học có trách nhiệm dùng bất cứ mọi hình thức suy tư nào cần thiết để duy trì và phát triển sự phổ quát của chân lý Kitô giáo. Mục tiêu của thần học là giữ cho sự giao thoa giữa văn bản & biểu tượng truyền thống Kitô giáo với bối cảnh xã hội hiện tại được liên tục. Trong khi thực hành sứ mạng này, thần học cũng nhận thấy mình có những mẫu số chung với các ngành triết học, tâm lý học, xã hội học, etc. Các mẫu số chung này có thể giúp thần học được khai triển rộng rãi và sâu sắc hơn, nhưng nó cũng không tránh khỏi nguy cơ tiềm ẩn. Nếu ngôn ngữ của đức tin quá lệ thuộc vào các “nguyên lý khoa học” thì thần học cũng sẽ mất đi thần khí năng động hoặc bị đóng băng vào các mệnh đề cứng nhắc mang tính giáo điều. Mặc khác, khi thần học tiếp cận mặc khải cách biệt lập, khép mình trong tư thế phòng thủ, từ chối đối thoại với thế giới bên ngoài thì nó cũng có khả năng trở thành duy tín hoặc duy nền tảng (foundationalism) qua cách nó thủ đắc và chuyển tải nội dung của đức tin.
Đó là tình huống nước đôi trong công tác suy tư thần học. Thần học (theo-logos) là lý lẽ hay lời về/của Thiên Chúa phải tránh các hố sâu nguy hiểm này khi dùng phương pháp suy luận để chân lý của Lời Chúa được tiếp tục sống động và mang lại ý nghĩa cho mọi bối cảnh. Thử thách cho thần học không chỉ đến từ bối cảnh văn hóa, lý tính mập mờ hay đa dạng tôn giáo, mà cả về tính giới hạn và thiếu tương xứng của ngôn ngữ con người khi nói về Thiên Chúa. Một khi cách tiếp cận thần học cũ không còn thích ứng thì phương pháp thần học mới sẽ ra đời. Sự có mặt của nhiều phương pháp trong thần học ngày nay là chứng cớ tỏ tường nhất cho bản chất đa chiều kích của thần học: suy tư thần học luôn là kết quả của sự giao thoa giữa các yếu tố đến từ nhiều bộ môn khoa học và suy tư khác nhau (inter-disciplinary inquiry). Cho dù phương cách suy tư thần học đã thay đổi nhiều trong lịch sử, nhưng vẫn có các hằng tố vẫn tiếp tục hiện diện. Đó là, (a) vai trò tất yếu của Kinh Thánh và truyền thống, (b) kinh nghiệm sống đức tin của cộng đòan, và (c) phương cách thần học kết nối hai yếu tố trên đây. Kế tiếp chúng ta sẽ phân tích bối cảnh hiện đại mà qua đó thần học đã được cấu trúc.
BỐI CẢNH HIỆN ĐẠI CỦA THẦN HỌC
Trước tiên chúng ta hãy sơ lược qua tình trạng chung của tri thức thời hiện đại. Một cách sơ khởi, ta có thể nói là thầnhọc hiện đại có sự tương tác bất ổn với lý tính tân thời (modern rationality). Sự bất ổn này bắt nguồn từ sứ mạng của thần học là tận dụng mọi phạm trù tri thức để thủ đắc và diễn đạt nội dung của mạc khải tiềm tàng trong các văn bản và biểu tượng của truyền thống Kitô giáo. Nhưng “lý tính tân thời” mà từ đó các phạm trù tri thức xuất phát thì lại không hoàn toàn đáng tin cậy, vì chính nó không chỉ mơ hồ (ambiguous) mà còn hàm hồ nữa (oppressive). Nếu thần học là nhịp cầu giao kết giữa đức tin (viễn tượng tôn giáo) với bối cảnh (thực tại xã hội) thì quá trình suy tư thần học đã phức tạp nay lại càng trở nên phức tạp hơn nữa.
Vấn đề chính yếu không chỉ là sự đa dạng của lý tính, nhưng chính là khủng hoảng ngay trong lý tính tân thời. Trong quá trình phát triển của lýtính tân thời, khía cạnh công cụ (instrumental) đã vượt xa khía cạnh thông diễn (communicative). Mục tiêu của lý trí là giải phóng con người khỏi bóng tối vô tri, nhưng một khi lý tính càng phát triển, nó càng trở nên công cụ để đàn áp và thống trị (Habermas). Từ buổi ban đầu của thời Ánh Sáng, triết học phê phán của Kant được tôn vinh với khả năng giải thoát lý tính ra khỏi các phạm trù duy thực Trung cổ, giúp nó trở nên độc lập và tự quyết (autonomy) trong sứ mạng thiếp lập các giá trị đạo đức. Tuy nhiên tinh thần phê phán này sớm trở nên thất vọng với kế hoạch cấp tiến của nó. Viễn tượng cho rằng khoa học cuối cùng sẽ giải phóng con người thì lại không được thành toại và thể hiện trong cơ chế chính trị và xã hội lịch sử hiện đại. Trái lại, một khi kỷ thuật khoa học trở nên tiến bộ hơn thì khả năng hủy hoại sự sống lẫn giá trị nhân phẩm càng trở nên tàn bạo hơn. Qua danh nghĩa phát triển kinh tế và kỷ nghệ thì sự lạm dụng quyền lực, bất công xã hội càng gia tăng, khoảng cách giữa giới giàu và nghèo càng nới rộng hơn, và môi sinh bị tàn phá và lạm dụng ở tốc độ khủng khiếp hơn.
Giả thuyết “modernization = rationalization” (Weber) cho rằng hiện đại hóa thì đồng nghĩa với lý tính hóa đã không mang đến kết quả thực thụ trong lịch sử. Lịch sử hiện đại đang chứng kiến sự nghịch lý của lý tính tân thời: quyền lực không thể tách rời khỏi bạo hành, khao khát độc lập thường điđôi với ý muốn thống trị, và ước vọng giải phóng thì luôn pha lẫn ý đồ chính trị. Kỷ nghệ tách biệt tri thức khỏi thực hành trong cuộc sống vốn cần thiết cho hành trình tìm kiếm khôn ngoan và hạnh phúc đích thực. Con người trở thành móc xích trong guồng máy kinh tế vĩ mô với mục đích đem lại nhuận lợi của vài nhóm thiểu số nào đó. Như thế, lý tính tân thời đã trở thành công cụ cho sự thống trị và tha hoá hơn là thật sự giải phóng con người (Frankfurt School). Đây là những lý do mà lý tính tân thời không thể làm môi giới hay cầu nối cho mối tương quan giữa thực tại tối hậu và nổ lực xây dựng một xã hội công bằng và tốt đẹp.
Thần học Kitô cũng không thể được bao che khỏi tình trạng khủng hoảng và mơ hồ nước đôi này. Lý do là vì thần học là một bộ môn suy tư đa chiều kích. Với sự tôn vinh của “chủ thể độc lập,” suy tư về tôn giáo cũng được khai triển song song với các nguyên tắc đầy hứa hẹn và cách mạng của đạo đức học thời Ánh Sáng. Nhưng sau cơn bão lốc Ánh Sáng lắng dịu xuống, viễn tượng phiếm thần “tôn giáo không cần Mạc khải” (Hume), hoặc tôn giáo như một loại lý tính đạo đức (Kant) thì không hoàn toàn lạc quan như đã được phác họa. Nổ lực muốn giải phóng tôn giáo ra khỏi lý tính duy thực đã cho ra đời một hiện tượng mới: thần học được thay thế bằng nhân học (anthropology); thần lý học bằng “nhân lý học” (anthropodicy), cuối cùng tôn giáo chỉ còn lả một loại lý tính công cụ (instrumental rationality). Các quan điểm về tôn giáo hiện đại minh họa sự nghịch lý này. Tôn giáo không chỉ là biểu tượng cho “ý chí thiện hảo” (Kant) mà còn là “ý muốn quyền lực” (Nietzsche). Bản chất của tôn giáo không chỉ xuất phát từ cảm xúc “lệ thuộc tuyệt đối” (Schleiermacher) mà còn từ một “ý thức bất hạnh” hay “tha hóa” (Sartre), phóng đại chính nó lên những gì vốn không phải là nó (Feuerbach). Qua ngôn ngữ lâm sàng, tôngiáo đã bị phê phán như “nạng gỗ” giữ bệnh nhân luôn trong tình trạng bị lệ thuộc (Freud), hay “thuốc phiện” ru ngũ đám đông khỏi ý thức được thực tại áp bức xã hội hay tiềm năng nổi loạn (Marx).
Tuy nhận thức được tình cảnh nước đôi của lý tính tân thời, thần học vẫn phải tiếp tục tìm kiếm ý nghĩa chân thực của đức tin. Thần học không thể đổi ngược dòng chảy lịch sử, trở về với thời đại vàng son Trung Cổ, như thể PhụcHưng, Ánh Sáng, Tân Thời chưa hề xảy ra. Nhưng thần học vẫn có thể rút tỉa bài học từ kinh nghiệm và khôn ngoan của lịch sử, đặt biệt qua cách các cấu trúc thần học cổ điển (Augustine, Thomas, Tân Kinh Viện). Các khuynh hướng mới trong thần học Công giáo hiện nay cũng chính là phương cách thần học thiết kế mối tương quan giữa thực tại tối hậu với giá trị đạo đức cho thế giới ngày nay.
CÁC KHUYNH HƯỚNG MỚI TRONG THẦN HỌC CÔNG GÍAO HIỆN NAY
Thật sự mà nói, suốt hơn hai thế kỷ qua, thần học gia Công Giáo đã không phải phấn đấu cực lực với lý tính tân thời như các thần học gia Tin Lành. Vì lẽ, thần học Công Giáo đã được bao che bởi một lịch sử kiềm chế và bảo thủ, một mặt lên án chủ thuyết tân thời (Forbidden list), mặt khác sự tái lên ngôi của chủ thuyết Tân Kinh viện và triết Tôma, khởi xướng bởi Đức GH Leo XIII (Aeternis Paris (1879). Tuy vậy, vẫn có những nổ lực đã giúp cho cuộc đối thoại giữa thần học Công Giáo và lý tính tân thời không bị đứt đoạn như: phương pháp lãng mạng của Newman, chủ thuyết phát triển lịch sử của Loisy, de Lubac dùng phạm trù hiện tượng-hiện sinh của Heidegger để phân tích tương quan giữa “tự nhiên và siêu nhiên”, hoặc khái niệm triết học “hành động và lịch sử” của Blondel. Trong bối cảnh tiền-Vatican, các thần học gia này đã giữ cho nhịp cầu thông tin mong manh được liên tục giữa thần học cấp tiến ở Tubigen và quan điểm bảo thủ cứng rắn của nhóm Tân-kinh viện.
Với cải cách của Vatican II, thần học gia Công giáo một lần nữa mở rộng cửa sằn sàng đối thoại với thế giới bên ngoài. Nhưng khi cánh cửa sổ mở ra để đón luồng “thần khí” mới vào, thì quang cảnh bên ngoài không được lãng mạn cho lắm. Không giống như các bậc tiền bối Kinh Viện, thần học gia Công Giáo ngày nay ý thức rằng mọi suy tư thần học phải thi thố trong một bối cảnh đa dạng và phê phán triệt để. Các “dấu hiệu của thời gian” (signs of the times) cho thấy rằng thần học phải đối đầu với một thế giới đầy dẫy bất công, đau khổ vô nghĩa, và tệ nạn xã hội, môi trường gây ra bởi tham vọng vô biên của con người đang nắm trong tay nền khoa học và kỷ thuật cao nhất trong lịch sử nhân lọai. Các khuynh hướng mới trong thần học Công Giáo sẽ được thành hình qua cách thần học gia bắt nhịp cầu tương quan giữa gia sản đức tin Kitô và kinh nghiệm sống đức tin trong thế giới đầy mâu thuẫn phức tạp hiện nay.
Một cách ngắn gọn, chúng ta có thể nhận diện 4 nổ lực hay phát triển mới trong thần học Công Giáo sau Vatican II: (1) thần học tiên nghiệm với khuynh hướng quay trở về với “chủ thể,” (2) thần học giải thích với sự tương quan liên đới giữa các kinh nghiệm đức tin, (3) thần học thực hành với khái niệm “praxis” (lý thuyết-thực hành biện chứng) trong các thần học chính trị, thần học giải phóng và thần học phụ nữ, và (4) thần học hậu hiện đại phê phán về não trạng duy nền tảng đang tiềm tàng trong ngôn ngữ và lý tính tôn giáo hiện tại. Bên dưới các khuynh hướng mới này là những luồng sóng ngầm đã đưa đẩy bánh lái của con thuyền thần học hiện tại. Đó là những thay đồi về các mô phạm tri thức (paradigm): từ “hiện tượng-hiện sinh” đến “ngôn ngữ,” rồi đến “xã hội phê phán”, và cuối cùng là “hậu hiện đại.” Bây giờ chúng ta sẳn sàng để quan sát 4 khuynh hướng mới trong thần học Công giáo hiện đại.
1. Transcendental theology: vai trò của “chủ thể” trong thần học tiên nghiệm
Trước tiên, với cải cách của Vatican II, thần học gia Công Giáo được khuyến khích trở về với “cội nguồn” (Kinh Thánh, Tín lý cổ truyền, v.v.) để tìm giải pháp cho các vấn nạn xã hội đương thời (chạy đua võ trang, bất công xã hội & kinh tế, phá sản giá trị nhân bản). Về phương pháp thì hoàn toàn lệ thuộc vào các chuyên gia thần học. Trong lúc các đồng nghiệp Tin Lành ở mức độ khác nhau thiếu tin tưởng vào lý tính như là công cụ để cập nhập hóa thần học; thần học gia Công giáo trái lại đã không ngần ngại quay “trở về với chủ thể.” Họ khai thác các điều kiện tiên nghiệm của chủ thể tính với mục đích mở rộng chân trời siêu nghiệm mà qua đó lịch sử mạc khải của Thiên Chúa và sự tiếp cận của con người gặp nhau. Từ đó họ dùng các phạm trù hiện tượng luận để mô tả chân trời siêu nghiệm này.
Rahner đã có công kết nối hai chiều hướng có vẻ đối nghịch: triết tân-kinh viện (neo-Scholasticism) và hữu thể-giải thích luận (ontological hermeneutics) của Heidegger vào một cụm từ gọi là “tiên nghiệm-Tôma” (transcendental Thomism). Đặc điểm của cách tổng hợp trên đây chính là khuynh hướng “trở về với chủ thể” trong thần học tiên nghiệm. Khuynh hướng này khẳng định rằng con người cảm nghiệm tri thức và tự do như là một loại cảm nghiệm siêu việt có một chân trời tuyệt đối và vô giới hạn, và cảm nghiệm sự gần kề thánh thiêng (divine-nearness) như là “ân sủng” hoặc điều kiện để chủ thể tính trở thành hiện thực. Như thế, Rahner đã vạch ra một hướng đi cho thế hệ thần học tiên khởi sau Vatican II. Hậu qủa của cách tiếp cận thần học này là một loại “nhân học” Kitô, xây dựng trên nền tảng hiện tượng luận khai thác chiều kích tiên nghiệm trong tri thức con người.
Tuy nhiên, loại linh đạo nhân học trên đây không thể giữ độc quyền lâu dài vì lẽ không phải mọi thần học gia sau Vatican đều đồng ý với cách Rahner tổng hợp Kant-Heidegger và chủ thuyết Tôma. Các thần học gia như Lonergan và Dulles (US) nhấn mạnh về khía cạnh cơ cấu và mô biểu của tri thức, và tầm quan trọng của khía cạnh này trong cách chủ thể tiếp cận tri thức thần học. Như thế phương pháp tiên nghiệm của Rahner đã được bổ túc với phê phán duy thực (critical realism) của Lonergan hay lối dùng mô biểu (models) trong cách cấu trúc thần học của Dulles. Công trình thần học của Lonergan và Dulles là nổ lực kết nối “nội dung” của mạc khải với cơ cấu của tri thức. Khởi điểm thần học của họ vẫn là chủ thể, nhưng đã thay thế “siêu nghiệm tính” bằng “thực nghiệm tính (cơ cấu, mô biểu) của chủ thể trong cách nó tiếp cận thực tại tối hậu. Và như thế, chủ thể không còn là một chân trời vô hạn và liên tục mà là kết quả của sự nối kết hay chấp vá của nhiều quá trình kinh nghiệm hoặc mô biểu cá biệt.
2. Hermeneutical theology: Tương quan liên đới giữa 2 “kinh nghiệm” trong thần học giải thích
Một khi “chủ thể” được hiểu như là một “cấu trúc”, thì tính trình thuật (narrative) của kinh nghiệm sẽ được nổi bật. Kinh nghiệm có chức năng tưong tự như “ngôn ngữ”, qua suy gẫm và phản tỉnh, kinh nghiệm có khả năng hồi tưởng hay tạo nên dự phóng cho tương lai (mimetic). Ví dụ, phản tỉnh về kinh nghiệm đau khổ hay bị áp bức đưa đến ý thức tự do của con người đang bị xúc phạm. Hoặc kinh nghiệm khám phá giới hạn của tri thức khoa học có thể hướng chúng ta đến chiều sâu của thực tại. Hậu quả của khuynh hướng “trở về với ngôn ngữ” (linguistic turn) này là một lối hiểu biết mới về khía cạnh tôn giáo tiềm tàng trong kinh nghiệm và ngôn ngữ con người. Tracy, kết nối giải thích học của Gadamer, phương pháp thực nghiệm của Lonergan và triết học ngôn ngữ với nhau để lý luận rằng có một “chiều kích tôn giáo” (religious dimension) được tỏ lộ qua kinh nghiệm và ngôn ngữ của các bản văn tôn giáo cổ điển và qua tính giới hạn của những câu hỏi khoa học, luân lý và triết học ngày nay. Thần học giải thích cần phải giải mã và nhận diện mối tương quan liên đới giữa các “chiều kích tôn giáo” đang hiện diện trong cả hai trục của thần học: Kinh Thánh và bối cảnh thế giới hiện tại.
Đặc điểm của khuynh hướng này là thay vì giới hạn tri thức luận vào các phạm vi siêu nghiệm trừu týợng nhý Rahner, các thần học gia giải thích nhắm vào sự phức tạp của nổ lực trở thành chủ thể. Quá trình trở thành chủ thể phải đối mặt với các chân trời lịch sử đa dạng triệt để về tư tưởng và tín ngưỡng, đầy dẫy đau khổ vả bất công vô nghĩa. Đứng trước các kinh nghiệm quá khác biệt như thế, hành trình trở thành một chủ thể tôn giáo sẽ không thể tiếp tục làm ngơ trước thực tại mâu thuẩn của cuộc sống được tỏ hiện qua lịch sử. Kinh nghiệm đau khổ làm gián đoạn quá trình hiểu biết và tư duy; chúng ta không thể tiếp tục giải thích thực tại cách bình thường. Đối với Tracy và Schillebeeckx, thần học trở thành một loại giải thích học phê phán có khả năng hồi phục và nối kết hai trục của kinh nghiệm sống đức tin: kinh nghiệm được lưu lại trong ký ức lịch sử (Kinh Thánh và biểu tượng đức tin), và kinh nghiệm sống của bối cảnh thế tục ngày nay. Thần học muốn thiết lập căn tính đức tin Kitô dựa trên mối tương quan liên đới phê phán giữa hai trục kinh nghiệm này.
Suy tư thần học do đó không chỉ là việc phân định xem chúng ta cần phải làm gì dựa trên những gì đã được mạc khải qua Kinh Thánh. Cả hai trục kinh nghiệm của hiện tại và của Kinh Thánh đều có thể phê phán và bổ túc lẫn nhau hầu để tránh não trạng tuyệt đối hóa hoặc thần cách hóa cách diễn đạt đức tin của lịch sử. Schillebeeckx nhấn mạnh vào sự tương quan liên đới giữa viễn tượng Thiên Chúa là Đấng giải phóng con người trong Kinh Thánh với kinh nghiệm đau khổ vô nghĩa trong thế giới. Hans Kung và Rosemary Ruether đối chiếu kinh nghiệm con người trong cả hai trục qua cách tương đồng hoặc tương phản với nhau. Cả hai thần học gia này dùng phương pháp phê bình lịch sử để hồi phục tính đoàn sủng của ngôn sứ cho việc đối chiếu trong thần học giải thích.
3. Praxis Theologies : “Thực hành” trong các thần học chính trị/giải phóng/phụ nữ.
Phương cách tương quan liên đới giữa hai trục “kinh nghiệm” trên đây vẫn có thể bị mù về một giả định mơ hồ đang hiện diện tại gốc rể của thần học giải thích. Đó là, “kinh nghiệm” nào của con người thật sự thích đáng cho việc liên đới này? Sự mơ hồ này gây nên ý thức mới về giới hạn của loại thần học được xây đựng trên nền tảng phê phán lý thuyết. Và như thế, khuynh hướng phê phán thần học thứ ba ra đời với khái niệm “thực hành” (praxis) của Metz. Ảnh hưởng bởi triết học của Blondel và thuyết phê phán xã hội (Ordo, Horkheimer), Metz chỉ trích phương pháp siêu nghiệm của Rahner như đã đốt giai đoạn trong hành trình khám phá hữu thể của “Dasein” và do đó không thể nhận diện hành trỉnh này là một cấu trúc lịch sử được thành hình bởi chính “praxis” của cộng đoàn nhân loại. Nếu thần học phải tiếp tục sứ mệnh làm chứng tá cho thực hành đức tin Kitô—một loại “praxis” được thôi thúc bởi hy vọng và niềm tin vào quyền năng tối thượng và tối hậu của Thiên Chúa trong nổ lực xóa bỏ bất công và đau khổ vô nghĩa hầu để mở rộng nước Chúa trên trần gian—thì thần học phải là một loại giải thích học mang tính chính trị. Thần học cần một loại thực hành (praxis) chính trị nếu nó muốn lột trần phiên bản “Ánh Sáng” của lý tính đang lên ngôi cách bí mật (secret enthronement) trong giới trung lưu ở tây phương. Nếu không, thần học sẽ đánh mất chức năng trở thành tin mừng giải phóng phổ phát. Qua lăng kính phương pháp, giải thích học chính trị của Metz đã giới thiệu một làn chỉ đỏ mới qua “praxis.” Thần học sẽ bị đánh giá dựa trên khả năng nó tác động lên “thực hành đức tin” trong hoàn cảnh xã hội và lịch sử và khả năng cụ thể hóa tin mừng giải phóng cho con người trong bối cảnh xã hội hiện nay.
Một khi làn chỉ đỏ “praxis” được đưa vào suy tư thần học, cánh cửa rộng mở và thần học gia đã áp dụng nó vào các bối cảnh cụ thể khác như: thần học chính trị Âu châu, thần học giải phóng Châu Mỹ Latin, thần học Da Đen, thần học Á đông, thần học Phụ nữ. Khi các cộng đoàn Kitô cơ bản (base-community Christians) tụ tập, cầu nguyện và suy tư về “thực hành đức tin,” cách tiếp cận thần học cũ không còn thích ứng nữa. Thần học giải phóng cho rằng mối tương quan liên đới giữa Kinh Thánh và bối cảnh hiện tại cần phải được bổ túc bằng “praxis” lột trần ý đồ bóc lột kinh tế của thiểu số đang thống trị. Sợi chỉ đỏ “thực hành/suy tư biện chứng” này đã giới thiệu vào thần học một nhạy cảm mới về các phân biệt giai cấp, chủng loại và phái tính đang tiềm tàng trong mọi hoạt động tri thức kể cả việc suy tư và sáng tác thần học. Tử đó, thần học có được một số “địa điểm” (location) làm cho việc tương tác giữa lý thuyết và thực hành được cụ thể hóa hơn. Nếu thần học không chỉ là cuộc đối thoại giữa hai trục kinh nghiệm sống đức tin (Kinh Thánh và bối cảnh hiện tại) mà còn là “thực hành đức tin” (praxis of faith) trong viễn tượng xây dựng Nước Chúa thì thần học trước tiên cần phải phê phán về chính thực hành của nó. Thần học giải phóng đã đáp ứng được nhu cầu cấp bách này.
4.Thần học hậu hiện đại: phê phán não trạng duy nền tảng (foundationalism)
Một khi thần học trở nên sân chơi cho biện chứng lý thuyết và thực hành được thi thố, thì thần học không tránh được dính líu vào các chủ đề đại chúng. Bước vào thập niên 80, các phong trào “Death of God” hay cách mạng chính trị không còn là chủ đề nóng bỏng cho thần học nữa. Nhưng thế giới vẫn còn đang đối đầu với hiểm họa về sự cân bằng môi sinh bị tàn phá, nạn diệt chủng, hận thù tôn giáo và sắc tộc, khủng bố, võ khí giết người hang loạt, etc. Như thế, thần học không thể đứng bên lề lịch sử, nhưng phải phát ngôn qua ngôn ngữ đại chúng để tiếng nói của mình được ghi nhận. Giá trị của thần học sẽ được đo lường trong bối cành đa dạng văn hóa và ý thức hệ, vì khán giả của nó không chỉ là cộng đồng đức tin hay phụng vụ, mà là toàn thể thế giới. Các tranh luận trong triết học về “kẻ khác” (The Other) hoặc “giải giới chủ thể” (de-centering of the subject) bắt đầu tìm vào khuôn viên của thần học và từ đó khái niệm “liên-chủ thể” (inter-subjective paradigm), kết nối với ngôn ngữ học, giải thích học, xã hội học được dùng như một mô biểu tri thức cho sứ mệnh khai triển thần học trong bối cảnh hậu hiện đại. (Tracy, Fiorenza, M. Fox). Thần học phải thi thố chân lý của mình giữa bối cảnh đa dạng triệt để, không chỉ về văn hóa, ngôn ngữ mà còn cả lý tính.
Khi đi tìm cách giải quyết vấn nạn đa dạng, thần học gia “cấp tiến” có khuynh hướng đi quá xa, đặt nền tảng cho chân lý và tri thức luận của họ trên các triết học hoặc mô biểu lý tính đương thời. Những phê bình ý thức hệ trong các thập niên trước bây giờ quay ngược trở lại, chỉ điểm vào chính thần học và đặt nghi vấn có lẽ thần học đã rơi vào não trạng duy nền tảng trong khi cố gắng thiết lập chân lý của nó. Cũng như thần học giải phóng hay thần học phụ nữ đã lên án tính mơ hồ và hiểm họa duy nền tảng tiểm tàng trong cách thần học giải thích cách hiểu về “kinh nghiệm,” thì giờ đây, các thần học gia “hậu hiện đại” cũng bắt đầu nghi vấn về sự lạc quan của thực hành tiên nghiệm (transcendental praxis) dựa trên thuyết phê phán xã hội (Frankfurt School). Vì lẽ, mọi phê phán xã hội hay viễn tượng giải phóng dựa trên lý tính đều cần phải cải hoán với thực tại của sự dữ và tội lỗi đang vẫn tiếp tục hiện diện trong thế giới con người. Thần học luôn cần phải lưu tâm đến nhu cầu con người cần được giải phóng khỏi ngục tù của mạng lý tính mà con người đã dệt nên cho chính mình.
Các thử thách trên đây đã thôi thúc thần học hậu-hiện tại suy nghĩ lại về khả năng có một não trạng duy nền tảng đang tiềm tàng trong cách tiếp cận của các thần học cấp tiến. Do đó, dưới bóng dù “hậu-cấp tiến” hay “hậu-hiện đại” một số thần học gia tìm lại “hình thức sự sống” (life-forms) tiềm tàng trong ngữ phạm thành hình bởi sự đặc thù của kinh nghiệm, truyền thống hay văn bản tôn giáo (Wittgenstein). Họ muốn quay trở về với “tính nội tại” của văn bản (intratextuality), đề nghị chủ thuyết lý tính phi-vô tư (non-neutral rationality) như là chiến lược để phản biện lại não trạng duy nền tảng trong thần học cấp tiến (Lindbeck & Yale School). Ngôn ngữ của Kinh Thánh và biểu tượng của truyền thống đức tin tự nó mang những hình thức sự sống đặc thù nếu chúng ta biết “qui luật” hay “trò chơi ngôn ngữ” của nó (language game). Họ kêu gọi thần học hãy đo lường sự thành công của ngôn ngữ và khái niệm của nó với điểm tựa tối hậu chính là Thiên Chúa. Trách nhiệm ưu tiên của thần học là gây nên ý thức rằng tất cả mọi ngôn ngữ hay diễn đạt về đức tin cần phải qui hướng về Thiên Chúa, tức là nền tảng tối hậu của mọi hiện hữu, xứng đáng để chúng ta tôn thờ. Thần học cần phân biện các tiêu chuần mà qua đó ngôn ngữ và diễn đạt đức tin sẽ được đánh giá. Thần học có sứ mệnh kiểm chứng và tái tác tạo ngôn ngữ, hình ảnh, khái niệm về Thiên Chúa cho tương xứng với qui chiếu của mạc khải Kitô và có giá trị cho kinh nghiệm của thời đại hiện nay (Kaufman).
KẾT LUẬN
Luận điểm của bài thuyết trình này là thần học luôn là bộ môn đa chiều kích, do đó, sứ mệnh làm thần học ngày nay đã trở nên phức tạp và trắc trở hơn, cố gắng tránh khỏi các cạm bẫy trong khi đáp trả các thử thách đến từ văn hóa, tôn giáo và lý tính. Chúng ta đã nhận diện một số vấn nạn mà thần học hiện nay đang đối đầu: chủ thể tính trong thần học tiên nghiệm mà thần học giải thích đã cố gắng giải quyết, tưong quan biện chứng giữa lý thuyết và thực hành mà các thần học thực hành đã khai thác, và cám dỗ của duy nền tảng mà thần học hậu hiện đại đang vạch trần. Chúng ta không có đủ thì giờ đi sâu vào sự phức tạp của mỗi chủ đề. Tuy nhiên đây là các vấn nạn sẽ tiếp tục ám ảnh cách tranh luận và cấu trúc của thần học trong thế kỷ 21 này. Lẽ dĩ nhiên vấn đề mới sẽ xảy ra như thế nào trong tương lai chúng ta không thể tiên đoán được. Nhưng tính đa dạng và đa chiều kích của thần học sẽ tiếp tục. Nếu thần học chấp nhận sứ mệnh của mình cách khiêm tốn, nhận thức giới hạn của ngôn ngữ và lý tính khi nói về Thiên Chúa, thì thần học sẽ sẵn sàng đối phó mọi thử thách đến từ mọi góc cạnh của đời sống đức tin.
Fr. Joseph Tân Nguyễn, OFM
(Thuyết trình tại Đại Chủng Viện Vinh Thanh ngày 05/11/2011)
Nguồn ĐCV Vinh Thanh