Chúa Nhật 20 Thường Niên

Chúa Giê su đã phá bỏ mọi ranh giới của dân tộc tuyển chọn. Người Do thái biết mình là Dân được chọn của Thiên Chúa, nhưng họ quên rằng họ cũng là những nhà truyền giáo và phải làm cho mọi người nhận biệt Thiên Chúa duy nhất đã kết ước với họ. Chúa Giê su biết điều đó và Ngài đã dẹp bỏ mọi giới hạn và như thế đáp ứng Thánh ý Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người và làm cho họ được sống.

Sách Tiên tri Isaia 56 1.6-7

Người Do thái bị lưu đày và bị đồng hóa với dân các nước. Họ tự hỏi lối sống rập theo dân ngoại nơi họ sẽ như thế nào khi họ sẽ trờ về quê hương. Tiên tri Isaia thử trả lời cho thắc mắc của họ. Ông khuyên họ hãy tích cực tham gia vào cộng đoàn thánh của những người sẽ tin vào Thiên Chúa đích thật.

Thánh Vịnh 66

Đây là lời chúc tụng Thiên Chúa vào mùa gặt hái. Thánh vịnh nầy mời gọi tất cả các nước ca tụng Chúa vì những kì công Người đã thực hiện. Đó là lối mở ra kỉ nguyên phổ quát mà Tin mừng công bố.

Thư gửi Rôma 11, 13-15.29-32

Thánh Phao lô thấy trong sự từ khước của người do thái một điều gì đó mang tính tạm thời cho Giáo Hội. Cửa Nước Trời phải rộng mở cho tất cả mọi người, đó là điều gây ra một phản ứng từ khước cho Dân Ưu tuyển. Nhưng sẽ có một ngày, Dân tộc nầy sẽ tìm lại chỗ mà họ đã được mời gọi trong Kinh Thánh đã được dọn sẵn cho người khác được vào. Sau khi đã nhận ra tội lỗi của mình, họ sẽ khám phá ra Lòng Thương xót của Thiên Chúa.

Mt 15: 21-28

NGỮ CẢNH

Sau khi nhận thấy sứ vụ rao giảng thất bại, không mang lại kết quả mong muốn, Chúa Giê su dồn mọi nổ lực dạy dỗ các môn đệ. Bên cạnh đó, các cuộc tranh luận với người Biệt phái vẫn càng ngày càng trở nên căng thẳng hơn. Như trong đoạn đi trước (15,10-20 ), Chúa Giê su tranh luận gay gắt với người Biệt phái về thức ăn sạch và nhơ uế. Ngài chủ trương ngược lại truyền thống do thái, coi mọi thức ăn đều sạch. Lập trường đó gây tức giận cho người Do thái. Đứng trước sự cứng lòng của họ, có phải Chúa Giê su đã quyết định bỏ mặc Israel để từ đây đến với lương dân không? Mt trả lời: Không phải thế!  Và trong đoạn nầy, ông cố gắng chứng minh qua phép lạ Chúa Giê su thực hiện  cho một người ngoại đạo để tưởng thưởng lòng tin của bà, và để khẳng định một lần nữa: “Ngài chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel thôi”.

Có thể đọc đoạn tin mừng theo bố cục như sau:

1. Hoàn cảnh (15,21)

2. Chúa Giê su từ chối yêu cầu của người phụ nữ (22-23a)

3. Chúa Giê su trả lời cho các môn đệ: Ngài từ khước (23b-24)

4. Chúa Giê su tiếp tục từ chối lời van nài của người phụ nữ (25-26)

5. Chúa Giê su khen ngợi và thán phục đức tin của người phụ nữ (27-28).

TÌM HIỂU

 Ra khỏi đó, Chúa Giê su lui về miền Tia và Si đôn: Người ta không thể xác định lộ trình nầy vì nó mang một ý nghĩa thần học: tác giả Mát thêu muốn cho thấy Chúa Giê su tiếp xúc với người dân ngoại sống trong miền ấy. Tia và Si đôn là cụm từ truyền thống chỉ vùng đất dân ngoại tại vùng bắc-đông-bắc Palestina thường được gọi là vùng Phênêkia. Dân vùng nầy tự gọi mình là “dân Canaan”, và CƯ cũng như TƯ tiếp tục dùng tên gọi đó.

Một người đàn bà Ca na an: Người phụ nữ nầy không phải là người Do thái, nhưng là một người ngoại biết rõ hoạt động của Chúa Giê su và do đó cũng có ít nhiều niềm tin của người Do thái. Vì thế Bà gọi Chúa Giê su là con vua Đa vít, tuy không hiểu rõ danh xưng ấy có nghĩa gì. Bà chỉ lặp lại điều mà Bà nghe người Do thái nói về Chúa Giê su.

Những con chiên lạc: có thể chỉ những tội nhân ở Israel, mà cũng có thể chỉ toàn thể dân Israel, được coi như một đàn chiên lạc mất chủ chăn của họ (9,36; 15,3-13).

Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi: Thoạt nghe, câu nầy có thể làm cho người ta khó chịu. Thật ra nó xác nhận sứ mạng mà Chúa Giê su nhận lãnh từ Thiên Chúa Cha, được các sấm ngôn CƯ loan báo. Sẽ có ngày Gia vê đuổi các mục tử giả  mạo nhà Israel để ban trách vụ mục tử cho Đấng Messia (Ed 34, 23). Chúa Giê su loan báo giờ đó đã đến. Ngài có sứ mạng tái lập Israel thành một đàn chiên duy nhất trung tín với Thiên Chúa. Sau đó các dân tộc khác mới được quy tụ. Tuy nhiên giai đoạn thứ hai nầy không trực tiếp thuộc về sứ mạng của Đấng Messia.

Chó con: Từ nầy (= kunarion) được dùng thay từ ‘chó’ (= kuon) nhằm làm dịu bớt tính cách khinh miệt trong lời nói của Chúa Giê su. Người Do thái thường gọi dân ngoại là ‘chó’ chứ không phải là ‘chó con’.

Lòng tin của Bà mạnh thật: Người phụ nữ Canaan nầy đã hiểu rằng Chúa Giê su không phải là một nhà thần thông thường thấy nào đó hoạt động một cách cá nhân, nhưng là thừa tác viên thi hành một kế hoạch của Thiên Chúa cho một dân ưu tuyển. Bà khiêm tốn nhìn nhận rằng dân tộc ấy được ưu tiên trong chương trình cứu độ. Đức tin của bà hệ tại ở đó.

SỨ ĐIỆP

Một ngày nọ một người ki tô hữu thấy một người hồi giáo đến nhà thờ cầu nguyện và khi được hỏi lí do, thì người nầy trả lời: “Thiên Chúa của anh và Thiên Chúa của tôi là một. Tôi đến nhà thờ nầy để cầu nguyện với Thiên Chúa của chúng ta”.

Bài tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy cuộc gặp gỡ của Chúa Giê su với một người phụ nữ Canaan. Thánh Mát thêu viết cho những người Do thái tòng giáo. Ngài muốn nhắc cho họ nhớ rằng Đức Ki tô không chỉ đến cho các tín hữu của dân tộc họ mà thôi, mà còn cho tất cả mọi người trên toàn thế giới. Lời loan báo tin mừng được gửi đến với tất cả mọi người, nhờ đó, người ngoại giáo từ khắp nơi đến với cộng đoàn Ki tô mới hình thành. Và trong số họ, chắc chắc là có những người Canaan ngoại giáo. Những người nầy không được nhiều thiện cảm dưới mắt nhiều người khác. Người ta nghi ngờ họ ăn bánh của những người Do thái Ki tô giáo. Vì thế Thánh Mát thêu kể lại câu chuyện về người phụ nữ Cana an nhằm đưa ra một bài học cho cộng đòan Do thái trở lại với Chúa Giê su.

Có một người đàn bà ngoại giáo đến với Ngài để xin chữa cho con gái của bà bị quỉ ám. Bà nầy gốc vùng Tia và Siđôn, nay thuộc Li ban, nơi Chúa Giê su đã lui về ít lâu trước. Đối với người Do thái thì đó là một người ngọai giáo. Bà ta và và những người ngoại khác thường bị người Do thái khinh miệt như là “những con chó” nghĩa là bị đối xử hết sức tồi tệ. Dù vậy để cứu con mình, bà tỏ ra dạn dĩ và bất chấp tất cả. Lời van xin của bà là tiếng kêu của một đức tin lạ lùng phát ra từ một người đàn bà ngọai giáo. Dù không biết gì về căn tính đích thức của Chúa Giê su, Bà vẫn gọi Ngài như là ‘Đấng Messia’, ‘con Vua Đa vít’, và là ‘Chúa’. Đó là những tước hiệu dành cho Thiên Chúa nên qua đó, bà tỏ cho thấy rằng hành vi đức tin của bà đi xa hơn nhiều người tín hữu ngoan đạo.

Lòng khiêm nhường của người phụ nầy khiến chúng ta nhớ đến những người cầu nguyện nổi tiếng bằng Kinh Thánh, đặc biệt bằng các thánh vịnh. Như họ, bà ý thức sự thấp hèn và sự bất xứng của mình trước mặt Chúa Giê su. Dù lần đầu bị từ chối, bà vẫn tiếp tục đi theo nài nỉ Chúa Giê su. Câu trả lời của Chúa Giê su có thể bị xem là cứng cõi; hơn nữa, cho thấy tinh thần cục bộ nếu chỉ nghe sơ qua: “Ta chỉ được sai đến cho các chiên lạc nhà Israen”. Nhưng nếu đọc kĩ, chúng ta sẽ khám phá ra điều nầy: các “chiên lạc” mà Chúa Giê su nói đó không chỉ là những người tín hữu đích thật của luật Mô sê, mà còn chỉ tất cả những người ngọai giáo mà các tiên tri và các Thánh vịnh thường nói đến. Họ không phải là những người xa lạ đối với Thiên Chúa; họ cũng thuộc về Ngài. Ngài đến để ban ơn cứu độ cho tất cả.

Thế rồi, một câu nói lạ lùng khác: “Không nên lấy bánh của con cái mà đem cho chó con” (Mt 15, 26). Thật ra, Chúa Giê su chỉ nhắc lại tiếng tăm người ta đồn về người Canaan: Ngài muốn cho người phụ nữ nầy một cơ hội diễn tả trước mặt các môn đệ một đức tin mà họ tưởng là không thể có được.

Và nhờ thế mà chúng ta nghe được câu trả lời đáng khen ngợi của người đàn bà Canaan nầy. Chủ nhà thường để cho các chó con ăn những miếng bánh vụn từ bàn rơi xưống. Bà tin vào một Thiên Chúa có một trái tim luôn rộng mở cho tất cả mọi người, không trừ ai. Bấy giờ Chúa Giêsu ngạc nhiên vì niềm tin đơn sơ nhưng chân thành đó, nên đã ban cho như bà cầu xin. Bà không chỉ được những miếng bánh vụn, mà kể từ nay, Ngài cho bà ngồi vào bàn ăn và được chia sẻ bánh của con cái. Như thế, chỉ có đức tin mới quyết định Giao ước với Thiên Chúa chứ không chỉ là việc thuộc về một dân hoặc thi hành các lề luật Mô sê.

Câu trả lời của Chúa Giê su từ đó mang một chiều kích khác. Người phụ nữ Canaan không bị lọai trừ, không ở ngòai dân Israel đích thật. Đức tin của bà đưa bà vào trong Vương quốc cánh chung mà Thiên Chúa đã muốn thực hiện trong Con của Ngài. Những người ở ngoài cũng được liên kết vào việc thờ phượng Chúa như người Do thái. “Nhà Cha Ta sẽ là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56, 7).

Chúa Giêsu mạc khải rằng Thiên Chúa sẵn sàng ‘bẻ khóa’ mở cửa trước cho người sĩ quan La mã ngọai đạo đã thưa với Ngài: “Tôi không xứng đáng cho Ngài vào nhà tôi, nhưng chỉ mói một lời và đầy tớ của Ngài sẽ được lành mạnh”. Ngài ngạc nhiên xác nhận rằng có những người ở rất xa Thiên Chúa đã làm một bước đi còn dài hơn cả những người tín hữu tốt nhất.

Ngày nay cũng thế, nhiều người ngoại gõ cửa chúng ta. Có những thành phần các tôn giáo khác đang cố gắng tìm hiểu sứ điệp tin mừng. Những người ‘tin sai quấy’, những người dửng dưng, nhũng người rất xa đức tin hiện diện với cộng đoàn chúng ta trong các lễ hôn phối và an táng. Họ tỏ ra quan tâm hơn người ta tưởng. Chúng ta đón tiếp họ như thế nào? Chúng ta có gì để trao ban cho họ? Những miếng bánh vụn hay cả chiếc bánh?

Rồi còn những người mà người ta gọi là “những kẻ mới vào”. Họ ở xa đức tin, nhưng như người đàn bà Canaan, họ đã gặp Đức Ki tô và đã thể hiện một bước đi ngoạn mục. Trong khi đó, những ai tự cho là tín hữu thì vẫn bình chân như vại, vẫn khư khư và không nhúc nhich trong pháo đài an toàn của mình. Tin mừng về người phụ nữ Canaan nầy là một bài học quí giá cho tất cả các tín hữu. Tất cả được nhắc nhở rằng đức tin không bao giờ dễ dàng cả. Nhưng Chúa Giê su chờ đợi chúng ta một niềm tin hoàn hảo. Với Ngài, chúng ta được mời gọi luôn luôn tiến xa hơn trong đức tin.

Mỗi ngày chủ nhật chúng ta được nuôi dưỡng bằng “Bánh sự sống”. Chúng ta hãy nài xin Chúa giúp đỡ chúng ta tiến sâu trên con đường mà Ngài đến để vạch ra để trở thành những chứng nhân đức tin và hi vọng cho tất cả những người chung quanh.

 

ĐÀO SÂU

THIÊN CHÚA BAN ƠN CỨU ĐỘ CHO MỌI NGƯỜI

Is 56,1.6-7 Thiên Chúa đón nhận những người ngoại giáo đến cầu nguyện với Người

Tv 67,2 Nào muôn dân hãy tung hô Người, lạy Thiên Chúa  !

Rm 11,13-32 Vai trò dân Ít-ra-ên trng Giao Ước mới!

Mt 15,21-28 Đức Giê-su chấp nhận lời cầu xin của người phụ nữ ngoại giáo

 

1. HỎI: Các bài đọc được liên kết theo chủ đề gì?

THƯA: THIÊN CHÚA BAN ƠN CỨU ĐỘ CHO MỌI NGƯỜI. Thiên Chúa chấp nhận lời cầu nguyện của những người ngoại giáo (Bđ1), cũng như Đức Giê-su nhận lời van xin của người phụ nữ Ca-na-an ngoại đạo (BTM). Thánh Phao-lô khẳng định vai trò cần thiết của Ít-ra-ên trong Giao Ước mới (Bđ2).

2. HỎI: Bài đọc một (Is 56,1.6-7) trích từ sách nào?

THƯA: Bài đọc một trích từ phần cuối sách I-sai-a thường được gọi là sách I-sai-a thứ ba, từ chương 56 đến 66, được soạn tác trong những thập niên đầu sau cuộc Lưu đày, tức là khoảng cuối thế kỉ 6 hay đầu thế kỉ thứ 5. Nội dung nằm củng cố niềm tin người Do thái hồi hương đang thất vọng trước thực tế khó khăn ngoài dự tưởng.

3. HỎI: Bối cảnh bài đọc một như thế nào?

THƯA: Sau 50 năm xa cách quê hương, người lưu đày trở về thấy mọi sự thay đổi hoàn toàn. Họ phải chạm trán với nhiều vấn đề phức tạp chưa từng có, như phải làm sao để chung sống với những người ngoại đã chiếm cứ và đang làm chủ mảnh đất của mình. Rồi có nên tiếp nhận vào cộng đoàn những người mới theo đạo không? Một số chủ trương cần phải giữ sự trung thành, một số khác tỏ ra cởi mở hơn với một số điều kiện.

4. HỎI: Tiên tri trả lời như thế nào trước vấn đề ấy?

THƯA: Tiên tri truyền lại Lời Chúa, quyết định mở cửa đón nhận những người tín hữu mới. Những ai có lòng thành tâm muốn gia nhập cộng đoàn Do thái thì tiên tri mời gọi cộng đoàn hãy mở rộng vòng tay tiếp nhận họ. Đối với những người còn hoài nghi, tiên tri nhấn mạnh đó là lệnh truyền của Thiên Chúa.

5. HỎI: Đó có phải là điểm mới trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa không?

THƯA: Đúng vậy. Điểm mới và quan trọng trong chương trình cứu độ được Thiên Chúa loan báo là từ nay ơn cứu độ được mở rộng ra cho tất cả mọi người, không trừ ai. Đó là tính cách phổ quát của ơn cứu độ.

6. HỎI: Tiên tri có đưa ra điều kiện gì không?

THƯA: Tiên tri đưa ra ba điều kiện để được tiếp nhận: một là giữ ngày sa bát, hai là thực hành Giao Ước, ba là làm những điều đẹp lòng Chúa.

7. HỎI: Bài đọc một gửi đến sứ điệp nào?

THƯA: Bài đọc một gửi đến sứ điệp nầy: từ nay, bất cứ ai giữ lề luật và thi hành sự công chính đều được tiếp nhận vào trong Nhà của Thiên Chúa: “Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (56,7).

8. HỎI: Nội dung bài đọc hai (Rm 11,13-32) như thế nào?

THƯA: Thánh Phao-lô cho biết trước kia là người ngoại nay đã tin vào Đức Kitô và trở thành tông đồ dân ngoại. Và dù có làm cho đồng bào Do thái của ông phân bì, thì ông cũng chấp nhận, miễn là dân ngoại cũng được cứu độ.

9. HỎI: Bối cảnh bài tin mừng (Mt 15,21-28) như thế nào?

THƯA: Sau cuộc tranh luận về ô uế (15,1-20), Đức Giê-su quyết định hướng về phía dân ngoại (c 21), tức là vùng phía bắc Pa-lét-ti-na, là phần đất ô uế dưới mắt người Do thái vì không tuân giữ luật trong sạch của Mô-sê. Tại đó, người đàn bà Ca-na-an ngoại giáo đến đón gặp Ngài (cc.22-28). Có 3 ý chính: 1. Bối cảnh câu chuyện (cc. 21-22a), 2. Cuộc đối thoại (cc. 22b-27), -3. Kết luận (c. 28).

10. HỎI: Tia và Si-đôn là những địa danh mang ý nghĩa gì?

THƯA: Tia và Si-đôn là cụm từ truyền thống chỉ vùng đất dân ngoại tại vùng bắc-đông-bắc Pa-lét-ti-na thường được gọi là vùng Phê-nê-ki-a.

11. HỎI: Thái độ im lặng kì lạ của Đức Giê-su trước lời van nài của người đàn bà khiến người ta nghĩ đến dụ ngôn nào?

THƯA: Dụ ngôn ‘người bạn quấy rầy’ trong tin mừng thánh Lu ca (11, 5-8) qua đó, Đức Giê-su dạy các môn đồ phải cầu nguyện một cách kiên trì và không bao giờ được nản lòng.

12. HỎI: Tại sao Đức Giê-su giữ thái độ im lặng với người đàn bà Ca-na-an; có phải Ngài tỏ ra dửng dưng với bà ta không?

THƯA: Chắc chắn là không, Đức Giê-su biết trước các phép lạ mà Chúa Cha đã định trước để hoàn thành sứ mạng được giao phó cho Ngài.

13. HỎI: Thế thì tại sao Ngài không quan tâm đến yêu cầu của bà?

THƯA: Vì Ngài muốn thử thách lòng tin của người đàn bà: đơn giản là Ngài không phải là một nhà thần thông nào đó, nhưng là Con Vua Đa vít, nghĩa là Đấng Mê-si-a sinh ra từ dòng dõi Đa vít

14. HỎI: Cụm từ ‘Những con chiên lạc’ chỉ ai?

THƯA: Có thể chỉ những tội nhân ở Ít-ra-ên, mà cũng có thể chỉ toàn thể dân Ít-ra-ên, được coi như một đàn chiên lạc mất chủ chăn của họ (9,36; 15,3-13).

15. HỎI: Tại sao Đức Giê-su trả lời Ngài chỉ được sai đến với các chiên lạc nhà Ít-ra-ên?

THƯA: Thoạt nghe, câu nầy có thể làm người ta khó chịu. Thật ra nó xác nhận sứ mạng mà Đức Giê-su nhận lãnh từ Thiên Chúa Cha, được các sấm ngôn CƯ loan báo. Sẽ có ngày Thiên Chúa loại các mục tử giả để giao phó đàn chiên cho Đấng Mê-si-a (Ed 34, 23). Giờ đây, Đức Giê-su xác nhận giờ đó đã đến. Ngài đến với sứ mạng qui tụ Ít-ra-ên thành một đàn chiên duy nhất trung tín với Thiên Chúa. Rồi sau đó mới quy tụ các dân tộc khác.

16. HỎI: Đức Giê-su có đòi buộc người đàn bà phải giữ luật Mô-sê không?

THƯA: Không. Ngài không đòi điều kiện gì cả ngoài đức tin.

17. HỎI: Đức tin của người đàn bà Ca-na-an hệ tại ở điều gì?

THƯA: Đức tin của bà hệ tại ở ba điều: một là bà tin rằng Đức Giê-su không phải là một người làm phép lạ nào đó hoạt động một cách cá nhân, nhưng là thừa tác viên của Thiên Chúa; hai là bà đã không thất vọng trước thái độ khước từ của Đức Giê-su nhưng kiên trì tin tưởng vào tình thương của Ngài; ba là bà nhận thức ưu tiên của dân Ít-ra-ên trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

18. HỎI: Sự kiên trì của người đàn bà phát xuất từ đâu?

THƯA: Từ lòng yêu mến con gái của bà. Khi có lòng yêu thương, người ta sẵn sàng kiên trì trong mọi sự cho đến khi đạt được điều mình mong ước.

19. HỎI: Đứa con gái của bà bị ma quỉ hãm hại, vậy cả người ngoại giáo Ca-na-an cũng tin vào sự hiện diện của ma quỉ sao?

THƯA: Có thể là như vậy. Điều quan trọng ở đây là nếu ma quỉ hành hạ cả những người ngoại, thì điều đó có nghĩa là ơn sủng mà Thiên Chúa của người Do thái ban phát không chỉ dành riêng cho dân Do thái mà thôi, mà cho tất cả các dân tộc, bởi vì tất cả đều là con cái Đấng Tối cao. Thế nên, Đức Giê-su sẽ chữa lành con gái bà.

20. HỎI: Đâu là Giáo huấn ngang qua đọan tin mừng nầy?

THƯA: 1. Khi xuất hiện trên trần gian, Đức Ki tô đã thay đổi hoàn toàn viễn tượng Giao ước và do đó, ơn cứu rỗi mà Thiên Chúa ban cho: từ nay viễn tượng phổ quát sẽ thay thế viễn tượng quốc gia. 2. Việc đi vào Vương quốc không cần điều kiện về giòng dõi nữa, mà chỉ nhờ đức tin dựa trên nền tảng là lòng quảng đại của Thiên Chúa. Chính nhờ đức tin mà tất cả mọi người sẽ được qui tụ trong Đức Ki tô, Con Thiên Chúa Cha. 3. Nhờ cái chết cứu độ của Đức Ki tô, tất cả đều được mời vào bàn tiệc cứu độ và hiệp thông. Không còn cảnh người thì được ăn bánh, kẻ thì chỉ được những miếng bánh vụn, nhưng tất cả sẽ được ăn no và được sống nhờ vào Thân mình và Máu Đức Ki tô. Tất cả sẽ được thông phần trong cùng một tấm bánh và cùng một chén rượu để làm nên một thân thể duy nhất trong Đức Ki tô

21. HỎI: Đối với các tông đồ sau Lễ Hiện xuống, việc nhớ lại phép lạ nầy của Thầy mình sẽ rất quan trọng?

THƯA: Đúng vậy. Và còn hơn nữa. Thật vậy, sau lễ Hiện Xuống, các môn đệ sẽ nhìn ra trong câu truyện nầy như một lời của Đức Giê-su mời gọi các ông loan báo Tin mừng khắp nơi.

GLCG 439 528-529 547. Nhiều người Do Thái, kể cả một số người ngoại cùng chia sẻ niềm hy vọng của Ít-ra-en, đã nhận ra nơi Đức Giê-su những nét cơ bản của “Con vua Đa-vít” là Đấng Mê-si-a mà Thiên Chúa đã hứa ban cho Ít-ra-en ( x. Mt 2,2; 9,27, l2,23; l5,22; 20,30; 2l,9.l5). Đức Giê-su đã chấp nhận danh hiệu Mê-si-a mà Người có quyền lãnh nhận ( x. Ga 4,25-26; ll,27;), nhưng một cách dè dặt vì danh hiệu này bị một số người đương thời hiểu theo một quan niệm trần tục ( x. Mt.22,4l-46) nặng phần chính trị ( x. Ga 6,l5; Lc.24,2l).

Phục Vụ Lời ĐCV Xuân Lộc

Comments are closed.