TÔNG HUẤN NIỀM VUI YÊU THƯƠNG (AMORIS LAETITIA)

CHƯƠNG HAI:

 NHỮNG KINH NGHIỆM VÀ

NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA GIA ĐÌNH

CHƯƠNG HAI: NHỮNG KINH NGHIỆM VÀ NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA GIA ĐÌNH [31-57]

– THỰC TẾ HIỆN NAY CỦA GIA ĐÌNH [32-

– MỘT SỐ THÁCH ĐỐ [50-57]

 

31. Thiện ích của gia đình là điều có tầm quyết định cho tương lai của thế giới và của Giáo Hội. Người ta đã làm vô số nghiên cứu về hôn nhân và gia đình, về những vấn đề và những thách đố hiện nay của nó. Chúng ta nên tập chú vào những thực tế cụ thể, vì “tiếng gọi và những đòi hỏi của Chúa Thánh Thần vang lên trong các biến cố lịch sử”, và qua các biến cố ấy “Giáo Hội cũng có thể được hướng dẫn tới một nhận hiểu thâm sâu hơn đối với mầu nhiệm khôn dò là hôn nhân và gia đình”.[8] Ở đây tôi sẽ không cố trình bày tất cả những gì có thể được nói về gia đình hôm nay. Tuy nhiên, vì các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã khảo sát hoàn cảnh của các gia đình trên khắp thế giới, tôi thấy thích hợp việc nêu một số nhận thức mục vụ của các Nghị Phụ, cùng với những quan tâm rút ra từ chính kinh nghiệm của tôi.

THỰC TẾ HIỆN NAY CỦA GIA ĐÌNH

32. “Trung thành với giáo huấn của Đức Kitô, chúng ta hướng nhìn thực tế của gia đình ngày nay trong tất cả tính phức tạp của nó, với cả ánh sáng và bóng tối… Những thay đổi về nhân học và văn hóa trong thời chúng ta đang ảnh hưởng lên mọi khía cạnh của đời sống, và mời gọi một sự tiếp cận có tính phân tích và đa dạng”.[9] Cách đây vài thập niên, các giám mục Tây Ban Nha ghi nhận rằng các gia đình đã có được sự tự do nhiều hơn “nhờ một sự phân phối hợp tình hợp lý các bổn phận, trách nhiệm và công việc”; thật vậy, “sự nhấn mạnh nhiều hơn về mối liên lạc cá vị giữa vợ chồng giúp làm cho đời sống gia đình có tính nhân văn hơn”, trong khi “cả xã hội ngày nay lẫn xã hội mà chúng ta đang tiến tới đều không cho phép một sự tiếp tục tồn tại mà không thẩm xét của những dạng thức trước đây”.[10] Cũng thật rõ rằng “các khuynh hướng chính trong những thay đổi nhân học và văn hóa” đang đưa “các cá nhân, trong đời sống riêng và đời sống gia đình, đến chỗ ngày càng ít nhận được sự hỗ trợ hơn từ các cấu trúc xã hội so với trong quá khứ”.[11]

33. Đàng khác, “cần phải dành sự lưu tâm không kém đối với mối nguy ngày càng tăng của một chủ nghĩa cá nhân cực đoan đang làm suy yếu các mối gắn kết gia đình và rốt cục coi mỗi thành viên gia đình như một đơn vị rời rạc, nhiều khi dẫn đến ý tưởng rằng nhân cách của một người được định hình bởi những khao khát của người ấy, những khao khát được xem là tuyệt đối”.[12] “Những căng thẳng tạo nên bởi một nền văn hóa cá nhân chủ nghĩa quá mức, cộng với những chiếm hữu và lạc thú, dẫn đến tình trạng bất bao dung và xung đột trong các gia đình”.[13] Ở đây tôi cũng muốn bao gồm cả nhịp sống hối hả ngày nay, những áp lực, cách tổ chức xã hội và công việc, vì tất cả đều là những yếu tố văn hóa chống lại những quyết định có tầm vĩnh viễn. Chúng ta cũng đối mặt với sự bất định và mập mờ ở khắp nơi. Chẳng hạn, chúng ta đề cao cách đúng đắn một tư tưởng nhân vị thượng tôn tính chân thực xét như là đối lập với sự rập khuôn thuần túy. Trong khi điều này có thể hỗ trợ cho tính cách tự nhiên, không gò bó, và giúp người ta sử dụng các tài năng cách tốt hơn, thì nếu đi lạc hướng, nó có thể thúc đẩy những thái độ thường xuyên nghi ngờ, sợ dấn thân, loay hoay với mình, và trịch thượng. Sự tự do chọn lựa giúp ta có thể vạch kế hoạch cho đời sống của mình và phát huy chính mình nhiều nhất có thể. Nhưng nếu sự tự do này thiếu những mục tiêu cao thượng hay thiếu kỷ luật cá nhân, nó sẽ suy thoái thành một sự bất lực, không thể quảng đại hiến thân cho người khác. Thật vậy, tại nhiều nước nơi mà con số các trường hợp kết hôn đang giảm, thì ngày càng có nhiều người chọn sống một mình hay chỉ đơn thuần chung chạ mà không sống chung. Chúng ta cũng có thể nghĩ đến một cảm thức tích cực về sự công bằng; nhưng nếu hiểu nhầm, cảm thức ấy có thể biến dân chúng thành những khách hàng chỉ quan tâm tới sự cung ứng các dịch vụ.

34. Khi những yếu tố này ảnh hưởng đến cách nhận hiểu về gia đình, thì người ta có thể xem gia đình như một trạm trên đường đi, chỉ có ích khi thuận tiện, hay như một cảnh vực trong đó các quyền được khẳng định, còn các mối tương quan thì bị bỏ mặc cho sự thay đổi thất thường của những ước muốn riêng và của các hoàn cảnh. Cuối cùng, ngày nay thật dễ lẫn lộn giữa sự tự do đích thực và ý tưởng rằng mỗi cá nhân có thể làm gì tùy ý; dường như không có những sự thật, những giá trị và những nguyên tắc cung cấp sự hướng dẫn, và mọi sự đều có thể và được phép. Lý tưởng của hôn nhân, được đánh dấu bằng một cam kết độc nhất và bền vững, bị gạt qua một bên bất cứ khi nào nó tỏ ra bất tiện hay gây chán ngán. Nỗi sợ cô đơn và nỗi khát khao sự bền vững và sự trung thành tồn tại ngay bên cạnh một nỗi sợ ngày càng tăng về khả năng mắc kẹt trong một mối tương quan có thể cản trở người ta tranh thủ các mục tiêu riêng của mình.

35. Là Kitô hữu, chúng ta không được phép ngừng bảo vệ hôn nhân chỉ để tránh lội ngược dòng cảm thức của người đương thời, hay chỉ vì muốn hợp thời, hoặc vì mặc cảm bất lực trước tình trạng suy thoái đạo đức và nhân bản. Chúng ta sẽ tước mất khỏi thế giới các giá trị mà chúng ta có thể và cần phải biểu dương. Thực là vô nghĩa việc duy chỉ ngồi nguyền rủa bóng tối sự dữ của thời đại, cơ hồ làm như vậy thì sẽ thay đổi được mọi sự. Cũng không ích gì việc cố dùng quyền để áp đặt các qui tắc. Điều chúng ta cần là một nỗ lực với sự quảng đại và trách nhiệm nhiều hơn để trình bày các lý do và các động cơ cho việc chọn lựa hôn nhân và gia đình, và bằng cách này giúp người ta đáp trả tốt hơn hồng ân mà Thiên Chúa ban cho họ.

36. Chúng ta cũng cần khiêm tốn và thực tiễn, nhìn nhận rằng nhiều khi cách mà chúng ta trình bày niềm tin Kitô giáo của mình, và cách ta cư xử với người khác, đã góp phần làm nên tình trạng ngổn ngang của hôm nay. Chúng ta cần biết phê phán chính mình cách thích đáng. Cũng vậy, chúng ta thường trình bày hôn nhân theo cách nào đó mà ý nghĩa kết hợp của hôn nhân, tiếng gọi của hôn nhân thúc đẩy người ta lớn lên trong tình yêu, và lý tưởng trợ giúp lẫn nhau của hôn nhân bị mờ nhòa, do sự đề cập hầu như chỉ tập trung vào bổn phận sinh sản. Chúng ta cũng không luôn luôn cung cấp những hướng dẫn vững chắc cho các đôi vợ chồng trẻ, có xét đến thời khóa biểu của họ, cách nghĩ và những ưu tư cụ thể của họ. Nhiều khi chúng ta cũng đề ra một lý tưởng thần học về hôn nhân quá đỗi trừu tượng và hầu như nhân tạo, quá xa rời các hoàn cảnh cụ thể và các khả năng thực tiễn của các gia đình. Tình trạng lý tưởng hóa quá mức như vậy, nhất là khi chúng ta không thúc đẩy niềm tín thác vào ơn Chúa, đã không giúp làm cho hôn nhân trở thành hấp dẫn hơn và đáng khao khát hơn, mà hoàn toàn đi ngược lại.

37. Từ khá lâu, chúng ta vẫn lầm tưởng rằng chỉ cần nhấn mạnh những điểm giáo thuyết, đạo đức sinh học và luân lý, mà không cần khích lệ việc mở lòng đón nhận ơn sủng, thì đó là mình đang cung cấp đủ sự nâng đỡ cho các gia đình, đang giúp củng cố mối dây hôn nhân, và đang trao ý nghĩa cho đời sống vợ chồng. Chúng ta thấy khó trình bày hôn nhân như một con đường năng động để phát triển và hoàn thành nhân vị, thế là chúng ta trình bày nó như một gánh nặng phải vác suốt đời. Chúng ta cũng thấy khó dành chỗ cho lương tâm của các tín hữu, những người rất thường đáp trả tiếng gọi của Tin Mừng cách tốt nhất, ngay giữa các giới hạn của họ, và đó là những người thường có khả năng làm công việc phân định của mình trong những hoàn cảnh phức tạp. Chúng ta được gọi để đào tạo lương tâm người ta chứ không phải để thay thế lương tâm của họ.

38. Chúng ta phải biết ơn vì đa số người ta vẫn trân trọng giá trị các mối tương quan gia đình vốn có đặc tính bền vững và được đánh dấu bởi sự kính trọng lẫn nhau. Họ trân trọng các cố gắng của Giáo Hội trong việc cung cấp sự hướng dẫn và các lời khuyên trong những lãnh vực liên quan đến sự trưởng thành trong tình yêu, việc giải quyết xung đột và việc nuôi dạy con cái. Nhiều người như đụng chạm được sức mạnh của ơn sủng mà họ kinh nghiệm trong Bí tích Hòa Giải và Thánh Thể, ơn sủng giúp họ đương đầu với những thách đố của hôn nhân và gia đình. Tại một số nước, nhất là tại nhiều vùng ở Phi Châu, chủ nghĩa thế tục đã không làm suy yếu một số giá trị truyền thống, và các cuộc hôn nhân tạo nên một mối dây vững chắc nối kết hai gia đình rộng lớn, với những cơ cấu được định rõ để giải quyết các vấn đề và các xung đột. Ngày nay chúng ta cũng biết ơn về chứng tá của các cuộc hôn nhân không chỉ chứng tỏ là bền vững, mà còn đầy hoa trái và yêu thương. Tất cả những yếu tố này có thể thúc đẩy một phương thức mục vụ tích cực và ân cần, có khả năng giúp các đôi bạn tăng cường lòng trân trọng đối với các đòi hỏi của Tin Mừng. Tuy nhiên, chúng ta thường lo chống đỡ, phung phí năng lực mục vụ vào việc lên án một thế giới suy đồi mà không chủ động đề ra những cách thế mưu cầu hạnh phúc đích thực. Nhiều người cảm thấy rằng sứ điệp của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình không phản ảnh rõ ràng lời rao giảng và thái độ của Đức Giêsu, Đấng đã nêu rõ một lý tưởng đầy đòi hỏi nhưng cũng không bao giờ bỏ qua cơ hội bày tỏ lòng trắc ẩn và sự gần gũi với những yếu đuối của con người, như câu chuyện người phụ nữ Samaria hay người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.

39. Điều nói trên không hề có ý rằng chúng ta nên dừng việc cảnh báo tình trạng suy đồi văn hóa vốn không khích lệ được tình yêu và sự tự hiến. Cuộc tham vấn diễn ra trước hai Thượng Hội Đồng vừa qua cho thấy rất nhiều triệu chứng của một thứ “văn hóa tạm bợ”. Ở đây tôi nghĩ đến, chẳng hạn, cái tốc độ mà người ta chuyển từ quan hệ tình cảm này đến một quan hệ tình cảm khác. Họ tin rằng, cũng như các mạng lưới xã hội, tình yêu có thể được nối mạch hay ngắt mạch, tùy theo ngẫu hứng của khách hàng, và mối tương quan nhanh chóng bị “chặn”. Tôi cũng nghĩ đến những nỗi sợ gắn liền với việc cam kết vĩnh viễn, nỗi lo không còn thời gian rảnh, và những mối tương quan tính toán hơn thiệt nhằm xoa dịu cô đơn, nhằm tìm sự che chở, hay nhằm có được sự phục dịch nào đó. Chúng ta ứng xử với các tương quan tình cảm theo cách mà chúng ta ứng xử với các đồ vật và môi trường: mọi thứ đều có sẵn; ai cũng sử dụng và vứt bỏ, mua sắm và phá hỏng, khai thác và vắt kiệt. Rồi thì chia tay. Chứng tự yêu (narcissism) làm cho người ta không thể nhìn ra bên ngoài mình, nhìn quá những khao khát và nhu cầu của chính mình. Nhưng sớm hay muộn, những kẻ dùng người khác rốt cục sẽ thấy chính mình bị dùng, bị lừa và bị vứt bỏ bởi cùng một thứ não trạng đó. Cũng đáng ghi nhận rằng những sự đổ vỡ thường xảy ra nơi những người hơi đứng tuổi, những người tìm kiếm một loại “độc lập” và vứt bỏ cái lý tưởng chung thủy cho đến răng long đầu bạc với nhau, chăm sóc và nâng đỡ nhau.

40. “Nghe có vẻ hồ đồ, nhưng có thể nói rằng chúng ta sống trong một nền văn hóa ép buộc người trẻ không lập gia đình, bởi vì họ thiếu những triển vọng cho tương lai. Nhưng cũng chính nền văn hóa này đang cung ứng cho những người khác quá nhiều sự chọn lựa đến nỗi họ cũng ngần ngại không lập gia đình.[14] Tại một số nước, nhiều người trẻ “hoãn kết hôn vì những lý do kinh tế, vì công việc hay vì học tập. Một số hoãn vì những lý do khác, như do ảnh hưởng của những ý thức hệ xem thường hôn nhân và gia đình, do muốn tránh những thất bại của các đôi vợ chồng khác, do nỗi sợ một cái gì đó mà họ coi là quá quan trọng và thánh thiêng, do những cơ hội xã hội và những mối lợi kinh tế gắn liền với việc chỉ đơn thuần sống chung, do một quan niệm về tình yêu thuần túy có tính cảm xúc và lãng mạn, do sợ mất sự tự do và độc lập của mình, và do sự tẩy chay một cái gì đó được nghĩ là chỉ có tính thiết chế và thủ tục”.[15] Chúng ta cần tìm ra ngôn ngữ thích hợp, những lập luận và những hình thức làm chứng có thể giúp ta chạm tới trái tim của các bạn trẻ, khích lệ họ phát huy lòng quảng đại, sự dấn thân, tình yêu và thậm chí phẩm cách anh hùng, và bằng cách đó mời gọi họ đảm nhận thách đố của hôn nhân với nhiệt tâm và can đảm.

41. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng “những xu thế văn hóa trong thế giới ngày nay dường như không đặt một giới hạn nào cho tâm cảm của người ta”; thật vậy, “một tâm cảm qui ngã, bất ổn, thay đổi thất thường sẽ không cho phép người ta đạt tới trưởng thành chín chắn”. Các Nghị Phụ cũng bày tỏ quan ngại về “sự lan tràn của các sản phẩm khiêu dâm và việc thương mại hóa thân xác, được thúc đẩy bởi sự lạm dụng internet”, và về “những tình huống thật đáng bức xúc trong đó người ta bị buộc đi vào hoạt động mại dâm”. Trong bối cảnh này, “các đôi bạn thường bất quyết, lưỡng lự và trăn trở để tìm những cách thế lớn lên. Nhiều người có xu hướng ở lại nơi những giai đoạn phôi thai của đời sống tình cảm và tính dục. Khủng hoảng trong một mối tương quan vợ chồng sẽ làm rúng chuyển cả gia đình và – qua việc ly thân và ly dị – có thể dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng cho người lớn, trẻ em và toàn xã hội, làm suy yếu các mối liên kết cá nhân và xã hội”.[16] Những vấn đề của hôn nhân “thường được đương đầu một cách nông nổi, và không có can đảm để biết kiên nhẫn suy nghĩ, để chấp nhận hy sinh và tha thứ cho nhau. Và những thất bại sẽ làm nảy sinh các quan hệ mới, các đôi bạn mới, các kết hợp dân sự mới, và các hôn phối mới, tạo nên những hoàn cảnh gia đình phức tạp và bất ổn cho đời sống đạo”.[17]

42. Hơn nữa, “sự sụt giảm dân số, do một não trạng chống lại việc có con, được hậu thuẫn bởi những chủ trương của thế giới về sức khỏe sinh sản, tạo ra không chỉ một tình trạng trong đó mối tương quan giữa các thế hệ không còn được bảo đảm, mà còn có mối nguy rằng, dần dà, sự tụt giảm này sẽ dẫn đến kiệt quệ về kinh tế và mất hết hy vọng về tương lai. Sự phát triển của công nghệ sinh học cũng có một tác động lớn trên tỉ lệ sinh sản”.[18] Thêm vào đó là những yếu tố khác như “công nghiệp hóa, cách mạng tình dục, nỗi sợ lạm phát dân số và những vấn đề về kinh tế… Chủ nghĩa tiêu thụ cũng ngăn cản người ta sinh con, đơn giản vì họ muốn duy trì một sự tự do và một lối sống nào đó”.[19] Lương tâm ngay thẳng của các vợ chồng vốn quảng đại trong việc chuyển thông sự sống vẫn có thể đưa họ đến chỗ hạn chế số con của mình, vì những lý do chính đáng, tuy nhiên, cũng chính “vì phẩm giá của lương tâm mà Giáo Hội mạnh mẽ phản bác sự can thiệp có tính áp đặt của nhà nước trong việc thúc đẩy ngừa thai, triệt sản và ngay cả phá thai”.[20] Những biện pháp như thế không thể chấp nhận được ngay cả tại những nơi có tỉ lệ sinh sản cao, thế nhưng tại những nước có tỉ lệ sinh sản thấp một cách đáng ngại người ta cũng thấy các chính trị gia hô hào điều này. Như các giám mục Hàn Quốc đã nói, đó là “hành động tự mâu thuẫn và chối bỏ bổn phận của mình”.[21]

43. Tại một số xã hội, sự suy yếu về đức tin và thực hành tôn giáo có một hệ lụy trên các gia đình, bỏ mặc các gia đình càng chơ vơ giữa bao khó khăn. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng “một triệu chứng của sự nghèo nàn khủng khiếp trong nền văn hóa thời nay, đó là sự cô đơn, phát xuất từ sự vắng mặt Thiên Chúa trong đời sống con người, và từ tình trạng mong manh của các mối tương quan. Cũng có phổ biến một mặc cảm bất lực khi đứng trước những thực trạng xã hội-văn hóa thường làm tan nát các gia đình… Các gia đình thường cảm thấy bị bỏ rơi do thiếu sự quan tâm của các cơ chế. Tác động tiêu cực trên trật tự xã hội thật rõ ràng, như thấy trong vấn đề khủng hoảng dân số, trong nỗi khó khăn của việc nuôi dạy con cái, trong thái độ ngần ngại không muốn đón nhận sự sống mới, trong xu hướng xem người già như gánh nặng, và trong sự gia tăng các vấn đề về cảm xúc và những bùng nổ của bạo lực. Nhà nước có trách nhiệm thông qua những đạo luật và tạo ra công ăn việc làm để bảo đảm tương lai của giới trẻ và giúp họ thực hiện kế hoạch xây dựng gia đình của họ”.[22]

44. Tình trạng thiếu nhà ở tương xứng hoặc vừa túi tiền thường dẫn đến việc trì hoãn các mối tương quan chính thức. Cần lưu ý rằng “gia đình có quyền có chỗ ở xứng đáng, phù hợp với đời sống gia đình và có đủ chỗ cho các thành viên, trong một môi trường tự nhiên cung ứng các dịch vụ căn bản cho đời sống của gia đình và cộng đồng”.[23] Gia đình và nhà ở luôn đi đôi với nhau. Điều này giúp ta nhận ra rằng cần phải nhấn mạnh các quyền của gia đình chứ không chỉ của các cá nhân. Gia đình là thiện ích thiết yếu của xã hội,và nó phải được bảo vệ.[24] “Giáo Hội luôn luôn xem một phần sứ mạng của mình là thăng tiến hôn nhân và gia đình, bảo vệ nó và chống lại những gì tấn công nó”,[25] đặc biệt ngày nay, khi hôn nhân và gia đình không nhận được mấy quan tâm trong các đề cương chính sách. Các gia đình có quyền “được kỳ vọng một chính sách đúng đắn về gia đình từ giới hữu trách trong các lãnh vực tư pháp, kinh tế, xã hội và tài chánh”.[26] Có những lúc gia đình khốn khổ khủng khiếp khi đương đầu với bệnh tật của một người thân trong tình trạng thiếu sự chăm sóc y tế thích đáng, hay phải vất vả loay hoay để tìm được công việc làm thích hợp. “Những khó khăn kinh tế không cho phép gia đình được tiếp cận giáo dục, các hoạt động văn hóa, và sự tham dự vào đời sống xã hội. Cách này hay cách khác, tình hình kinh tế hiện nay đang không cho phép người ta hòa nhập vào xã hội. Đặc biệt, các gia đình phải hứng chịu những vấn đề liên quan đến việc làm, trong đó người trẻ chẳng có mấy cơ hội, và sự cung ứng việc làm thì rất kén chọn và không vững chắc. Ngày làm việc kéo dài và nhiều khi càng trở nên nặng nề hơn bởi những quãng thời gian xa nhà ngày càng lâu hơn. Tình hình này không giúp cho các thành viên gia đình sum họp với nhau, không giúp cho cha mẹ gần gũi con cái bằng một cách thế khả dĩ vun xới các mối quan hệ mỗi ngày”.[27]

45. Nhiều trẻ em sinh ngoài hôn nhân, vì thế nhiều em lớn lên với chỉ cha hoặc mẹ, hay trong một gia đình hỗn hợp hoặc chắp vá… Một thực tế thảm hại và gây phẫn nộ khác nữa trong xã hội ngày nay, đó là tình trạng bóc lột tình dục trẻ em. Các xã hội hứng chịu bạo lực do chiến tranh, khủng bố, hay do sự tồn tại của tội ác có tổ chức… đang chứng kiến sự suy vong của gia đình, nhất là tại các thành phố lớn, nơi mà, ở các vùng ngoại ô, hiện tượng ‘trẻ em đường phố’ đang ngày càng gia tăng”.[28] Sự lạm dụng tình dục trẻ em càng gây bức xúc hơn khi nó xảy ra ở những nơi mà đáng lẽ trẻ em được an toàn nhất, như gia đình, trường học, các cộng đoàn và các cơ chế Kitô giáo.[29]

46. “Di dân, một dấu chỉ khác nữa của thời đại, phải được đối mặt và nhận hiểu các hệ quả tiêu cực của nó trên đời sống gia đình”.[30] Thượng Hội Đồng Giám Mục vừa qua đã lưu ý đến vấn đề này, ghi nhận rằng “bằng nhiều cách, hiện tượng di dân ảnh hưởng đến toàn thể cư dân ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới. Giáo Hội đã đóng một vai trò đáng kể trong lãnh vực này. Gìn giữ và phát huy chứng tá này cho Tin Mừng (x. Mt 25,35) là điều rất cần thiết hôm nay, hơn bất cứ thời nào trước đây… Tính di động của con người, như được thấy trong sự thiên di tự nhiên của các dân tộc trong lịch sử, có thể có ý nghĩa phong phú thực sự cho cả các gia đình di dân lẫn những quốc gia đón nhận họ. Còn sự di cư bắt buộc của các gia đình – do hoàn cảnh chiến tranh, bách hại, nghèo đói, bất công, và gắn liền với những truân chuyên của một hành trình thường phải liều cả mạng sống – thì khiến người ta hoảng loạn và gây mất ổn định cho các gia đình. Trong việc đồng hành với những người nhập cư, Giáo Hội cần một chương trình mục vụ đặc biệt, nhắm đến không chỉ các gia đình nhập cư mà cả những thành viên vẫn còn ở lại đằng sau. Hoạt động mục vụ này phải được tiến hành với sự tôn trọng thích đáng văn hóa của họ, việc đào tạo nhân bản và tôn giáo tại bản quán của họ, cũng như gia sản tâm linh phong phú của các nghi lễ và truyền thống của họ, kể cả bằng một phương thức mục vụ đặc biệt… Cách riêng, di cư là thảm kịch và là sự tàn phá đối với các gia đình và các cá nhân khi nó xảy ra một cách bất hợp pháp và được hỗ trợ bởi những mạng lưới buôn người quốc tế. Cũng là thảm kịch như vậy khi tình hình liên quan đến các phụ nữ hay các trẻ em bơ vơ bị buộc phải chịu đựng những thời gian dài trong các điều kiện tạm bợ và các trại tị nạn, nơi mà người ta không thể bắt đầu một tiến trình hội nhập. Sự nghèo túng cùng cực và những hoàn cảnh gia đình phân cách đôi khi thậm chí dẫn đến việc bán con cái cho mại dâm hay cho con buôn cơ phận người”.[31] “Sự bách hại các Kitô hữu và các nhóm thiểu số tôn giáo và sắc tộc ở nhiều khu vực trên thế giới, nhất là ở Trung Đông, là một thử thách lớn lao không chỉ cho Giáo Hội mà còn cho toàn thể cộng đồng quốc tế. Cần phải khích lệ mọi cố gắng, ngay cả bằng một cách thế thực tiễn, để hỗ trợ các gia đình và các cộng đoàn Kitô hữu tiếp tục ở lại nơi bản quán của họ”.[32]

47. Các Nghị Phụ cũng đặc biệt mời gọi lưu tâm đến “gia đình của những người có các nhu cầu đặc biệt, trong đó cái thách đố bất ngờ phải đương đầu với một khuyết tật có thể làm xáo trộn sự quân bình, xáo trộn các mong ước và kỳ vọng của một gia đình… Thật đáng khâm phục những gia đình đầy yêu thương đón nhận cái thử thách cam go của một đứa con với những nhu cầu đặc biệt. Họ trao cho Giáo Hội và xã hội một chứng tá vô giá về sự trung thành đối với hồng ân sự sống. Trong những hoàn cảnh này, gia đình có thể khám phá, cùng với cộng đoàn Kitô hữu, những phương thức mới, những cách hành động mới, một cách khác để đồng cảm và liên đới với người khác, bằng việc đón nhận và nâng niu mầu nhiệm về tính mong manh của sự sống con người. Những người mang khuyết tật là một quà tặng cho gia đình và là một cơ hội để lớn lên trong tình yêu, trong sự trợ giúp nhau và hiệp nhất… Trong ánh sáng đức tin, nếu gia đình chấp nhận sự hiện diện của những người có các nhu cầu đặc biệt, thì họ sẽ có thể nhận ra và bảo đảm tôn trọng phẩm chất và giá trị của mọi sự sống con người, với những nhu cầu, những quyền và cơ hội riêng của nó. Cách tiếp cận này sẽ thúc đẩy sự săn sóc và phục vụ những người chịu thiệt thòi ấy, cũng như sẽ khích lệ sự gần gũi và cảm thông với họ ở mọi giai đoạn cuộc đời của họ”.[33] Ở đây tôi muốn nhấn mạnh rằng sự dấn thân và quan tâm dành cho những người di cư cũng như những người có các nhu cầu đặc biệt là một dấu chỉ của Chúa Thánh Thần. Cả hai trường hợp đều có tính kiểu thức: cả hai đều phục vụ như một trắc nghiệm về sự dấn thân của chúng ta để bày tỏ lòng thương xót bằng cách đón nhận người khác và giúp những người yếu ớt hòa nhập đầy đủ vào các cộng đồng của mình.

48. “Đa số các gia đình có lòng tôn kính đặc biệt dành cho những người cao tuổi, vây quanh họ với đầy ắp tình cảm và xem họ như một ân phúc. Cần phải tuyên dương cách riêng các hiệp hội và các phong trào gia đình dấn thân phục vụ những người cao tuổi, cả về tâm linh lẫn xã hội… Tại các xã hội công nghiệp hóa cao, nơi mà con số người cao tuổi gia tăng ngay cả khi tỉ lệ sinh sản sụt giảm, họ có thể bị xem như một gánh nặng. Đàng khác, sự săn sóc mà họ cần thường tạo nên một căng thẳng cho những người thân của họ”.[34] “Sự săn sóc và quan tâm dành cho những giai đoạn cuối cùng của đời sống là điều càng cần thiết hôm nay, khi mà xã hội hiện đại cố tháo gỡ mọi dấu vết của sự chết và sự hấp hối. Những người cao tuổi yếu ớt và phải lệ thuộc đôi khi bị khai thác một cách bất công để chỉ nhắm đến mối lợi kinh tế. Nhiều gia đình cho thấy rằng có thể tiếp cận những giai đoạn cuối cùng của cuộc sống bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm thức hoàn thành một đời người và sự tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa. Nhiều người cao tuổi được chăm sóc tại các cơ sở của Giáo Hội, ở đó, về vật chất và tinh thần, họ có thể sống trong một bầu khí gia đình êm ấm. Cái chết êm dịu và việc tự tử được hỗ trợ là những đe dọa nghiêm trọng cho các gia đình trên khắp thế giới; tại nhiều nước, những thực hành ấy đã được hợp pháp hóa. Giáo Hội, trong khi kiên quyết chống lại những thực hành ấy, cảm thấy cần phải hỗ trợ các gia đình đang chăm sóc cho các thành viên cao tuổi và yếu ớt của mình”.[35]

49. Ở đây tôi cũng muốn đề cập hoàn cảnh của các gia đình sống trong cái nghèo tận cùng và những hạn chế chồng chất. Các vấn đề mà những gia đình nghèo phải đối mặt thường gay go hơn rất nhiều.[36] Ví dụ, nếu một người mẹ đơn thân phải tự chăm sóc đứa con, và chị cần để đứa bé ở nhà một mình trong khi chị đi làm, đứa trẻ sẽ lớn lên trong tình trạng phó mặc cho mọi loại nguy cơ và mọi ngáng trở đối với sự trưởng thành nhân vị. Trong những hoàn cảnh khó khăn ngặt nghèo như thế, Giáo Hội phải quan tâm cách riêng để cung ứng sự thông cảm, an ủi và đón nhận, hơn là bất nhẫn áp đặt một mớ qui tắc chỉ làm cho người ta cảm thấy bị xét đoán và bỏ rơi bởi chính người Mẹ được mời gọi bày tỏ cho họ thấy lòng thương xót của Thiên Chúa. Thay vì cung ứng năng lực chữa trị của ân sủng và ánh sáng của sứ điệp Tin Mừng, một số người sẽ “giáo điều hóa” sứ điệp ấy, biến nó thành “những viên đá để ném vào người khác”.[37]

MỘT SỐ THÁCH ĐỐ

50. Những phúc đáp cho hai cuộc tham vấn tiền Thượng Hội Đồng đã đề cập đến nhiều hoàn cảnh và những thách đố mới mà các hoàn cảnh ấy đặt ra. Ngoài tất cả những gì đã được nhắc đến, nhiều phúc đáp đã chỉ ra những vấn đề mà các gia đình phải đối mặt trong việc nuôi dạy con cái. Trong nhiều trường hợp, cha mẹ (từ sở làm) về nhà mệt lả, không muốn nói chuyện, và nhiều gia đình thậm chí không còn dùng bữa chung với nhau. Bao nhiêu thứ làm phân tán tâm trí, kể cả chứng nghiện ti-vi. Điều này làm cho cha mẹ càng khó hơn trong việc chuyển thông đức tin cho con cái. Có những câu trả lời lưu ý tác dụng của tình trạng áp lực đè nặng trên các gia đình, trong đó người ta thường lo toan cho tương lai hơn là cảm nếm hiện tại. Đây là một vấn đề văn hóa rộng lớn, càng trở nên tệ hại hơn nữa bởi những nỗi lo lắng về việc làm ổn định, về tài chánh và về tương lai của con cái.

51. Ma túy cũng được đề cập như một trong những hiểm họa của thời đại chúng ta, gây bao nỗi khổ lớn lao và thậm chí phá vỡ nhiều gia đình. Tình hình cũng như thế đối với nạn nhậu nhẹt, cờ bạc và các thứ nghiện khác. Gia đình có thể là nơi đề phòng và khắc phục những vấn đề này, nhưng xã hội và chính trị không nhìn thấy rằng các gia đình đang có nguy cơ “mất khả năng hành động trong việc giúp các thành viên của mình… Chúng ta thấy những hậu quả nghiêm trọng của thất bại này nơi các gia đình bị phân rã, nơi những người trẻ bị trốc rễ và những người già bị hất hủi, nơi những con cái ‘mồ côi’ dù cha mẹ vẫn đang còn sống, nơi các bạn thanh niên và những người mới bước vào tuổi trưởng thành gặp hoang mang và không được ai nâng đỡ.”[38] Như các giám mục Mêhicô đã chỉ ra, bạo lực trong các gia đình sinh ra những dạng mới của xung đột xã hội, vì “các mối tương quan gia đình cũng có thể là nguyên nhân của một tính cách ưa bạo lực. Điều này thường xảy ra với các gia đình trong đó thiếu sự liên lạc cách trầm trọng, thái độ phòng thủ được thấy tràn lan, các thành viên không nâng đỡ nhau, không có những hoạt động gia đình khích lệ sự nối kết, mối tương quan giữa cha mẹ thường đầy xung đột và bạo lực, còn tương quan giữa cha mẹ và con cái thì đầy dấu vết xung khắc. Bạo lực bên trong gia đình sản sinh ra sự phẫn uất và căm thù ngay trong những mối tương quan nhân văn nền tảng nhất”.[39]

52. Không ai nghĩ rằng sự suy yếu của gia đình – trong tư cách là dạng xã hội tự nhiên đặt nền trên hôn nhân ấy – sẽ đem lại ích lợi cho xã hội xét như một toàn thể. Điều ngược lại mới đúng: nó là mối đe dọa cho sự trưởng thành của các cá nhân, sự vun xới các giá trị cộng đồng, và sự thăng tiến đạo đức của các đô thị và các quốc gia. Người ta không nhận ra rằng duy chỉ mối kết hợp độc nhất và bất khả phân ly giữa một người nam và một người nữ mới đảm nhận vai trò đầy đủ trong xã hội xét như một mối ràng buộc vững chắc đem lại hoa trái sự sống mới. Ta cần nhìn nhận rằng có nhiều hoàn cảnh gia đình khác nhau có thể cung ứng một sự ổn định nào đó, nhưng những sự kết hợp de facto hay đồng giới, chẳng hạn, thì không thể đơn giản đánh đồng với hôn nhân. Không sự kết hợp nào chỉ có tính tạm bợ hoặc đóng cửa đối với việc truyền sinh lại có thể bảo đảm cho tương lai của xã hội. Nhưng hiện nay, ai là những người đang cố gắng củng cố hôn nhân, giúp các đôi vợ chồng vượt qua những vấn đề của họ, hỗ trợ họ trong việc nuôi dạy con cái và, nói chung, khích lệ sự ổn định của mối dây hôn phối?

53. “Một số xã hội vẫn duy trì chế độ đa thê; tại những nơi khác, dạng hôn phối được dàn xếp vẫn còn tiếp tục… Tại nhiều nơi, không chỉ ở phương Tây, việc sống chung trước hôn nhân đang lan rộng, cũng như có một kiểu chung sống mà hoàn toàn không có ý định kết hôn”.[40] Tại nhiều nước, pháp luật hậu thuẫn cho rất nhiều dạng thức thay thế hôn nhân, mà hậu quả là hôn nhân – với những đặc tính đơn nhất, bất khả phân ly và mở ra đón nhận sự sống – hóa ra bị coi như là một sự chọn lựa ngổ ngáo và lỗi thời. Nhiều quốc gia đang chứng kiến một sự phân rã hợp pháp của gia đình, hướng tới vận dụng những kiểu thức hầu như duy chỉ đặt nền trên sự tự trị của ý chí cá nhân. Đành rằng thật là hợp lẽ và đúng đắn việc loại bỏ những dạng thức cũ của gia đình truyền thống mang dấu ấn của chủ nghĩa độc đoán và thậm chí bạo lực, nhưng điều này không được phép dẫn tới việc bôi bác chính hôn nhân, mà đúng hơn phải dẫn tới việc khám phá lại ý nghĩa đích thực của nó và canh tân nó. Sức mạnh của gia đình “nằm ở khả năng yêu thương và dạy cách yêu thương. Bất chấp tất cả các vấn đề xảy ra cho gia đình, nó luôn luôn có thể lớn lên, khởi đi từ tình yêu.”[41]

54. Trong cái nhìn toát lược này, tôi muốn nhấn mạnh rằng cho dù đã có những bước tiến quan trọng trong việc nhìn nhận các quyền của phụ nữ và sự tham dự của họ vào đời sống công cộng, tại một số nước vẫn còn rất nhiều việc phải làm để thăng tiến những quyền này. Những tập tục không thể chấp nhận vẫn cần được loại bỏ. Tôi nghĩ cách riêng đến sự bạc đãi đáng xấu hổ mà đôi khi phụ nữ phải chịu, những bạo lực trong gia đình và rất nhiều hình thức nô dịch hóa, trong đó không hề cho thấy sức mạnh của đàn ông mà đúng hơn chỉ là những hành động nhu nhược nhát đảm. Bạo lực trong lời nói, trên thân thể và trong tình dục mà phụ nữ phải chịu đựng trong một số cuộc hôn nhân là điều mâu thuẫn với chính bản chất của sự kết hợp vợ chồng. Tôi nghĩ đến việc cắt xẻo rất đáng khiển trách trên cơ quan truyền sinh của phụ nữ, vẫn được thực hành trong một số nền văn hóa, cũng như tình trạng phụ nữ thiếu cơ hội bình đẳng để có được việc làm xứng đáng và có những vai trò đưa ra quyết định. Lịch sử đã bị đè nặng bởi những thái quá của các nền văn hóa gia trưởng vốn xem phụ nữ là thấp kém, nhưng trong thời của chúng ta, không thể bỏ qua việc sử dụng các bà mẹ đẻ thay cũng như “việc khai thác và thương mại hóa thân xác phụ nữ trong văn hóa truyền thông hiện nay”.[42] Có những người cho rằng nhiều vấn đề của ngày nay đã xuất hiện là do sự giải phóng phụ nữ. Tuy nhiên, lập luận ấy không có căn cứ, “nó sai lạc, không đúng,và nó là một hình thức của chủ nghĩa đàn ông trị”.[43] Phẩm giá bình đẳng của nam và nữ làm cho chúng ta vui mừng khi nhìn thấy những dạng kỳ thị của thời trước biến mất, và trong các gia đình đang có sự tương nhượng ngày càng tăng. Trong khi một số hình thức dấy lên của phong trào nữ quyền phải được xem là không phù hợp, thì ta cũng phải nhìn phong trào phụ nữ như là hoạt động của Chúa Thánh Thần, để phẩm giá và các quyền của phụ nữ được nhìn nhận rõ hơn.

55. Người đàn ông “đóng một vai trò có tính quyết định không kém trong đời sống gia đình, nhất là liên quan đến việc bảo vệ và nâng đỡ vợ con… Nhiều người đàn ông ý thức tầm quan trọng của vai trò mình đảm nhận trong gia đình, và họ sống tính cách đàn ông của mình một cách thích đáng. Sự vắng mặt của người cha sẽ ảnh hưởng nặng nề đến đời sống gia đình, việc nuôi dạy con cái và việc hội nhập chúng vào xã hội. Sự vắng mặt này – có thể là vắng mặt về thể lý, tình cảm, tâm lý hay tâm linh – sẽ tước mất khỏi con cái một hình ảnh người cha thích hợp”.[44]

56. Một thách đố nữa được đặt ra bởi các dạng khác nhau của một ý thức hệ về phái tính chủ trương “phủ nhận sự khác biệt và tính hỗ tương vốn thuộc bản chất của người nam và người nữ, và hình dung một xã hội không có những khác biệt về tình dục, từ đó loại trừ cả nền tảng nhân học của gia đình. Ý thức hệ này dẫn đến những chương trình giáo dục và sự ban hành các đạo luật cổ xúy một căn tính cá nhân và sự mật thiết tình cảm tách rời hẳn khỏi những khác biệt sinh học giữa nam và nữ. Hệ quả là căn tính con người trở thành một sự chọn lựa của cá nhân, là điều có thể thay đổi qua thời gian”.[45] Thật rất đáng ưu tư khi một số ý thức hệ loại này – vốn nhằm đáp ứng những cảm hứng đôi khi là chính đáng – có thể tự khẳng định như một cái gì tuyệt đối và không thể chất vấn, thậm chí chúng qui định cả cách mà người ta phải nuôi dạy con cái nữa. Cần nhấn mạnh rằng “giới tính sinh học và vai trò văn hóa xã hội của giới tính là những thứ có thể phân biệt nhau nhưng không tách rời nhau”.[46] Đàng khác, “cuộc cách mạng công nghệ trong lãnh vực sinh sản của con người đã dẫn đến khả năng bóp méo hành động truyền sinh, làm cho nó độc lập đối với mối tương quan tính dục giữa một người nam và một người nữ. Theo đó, sự sống con người và tư cách cha mẹ đã trở thành những chi tiết rời và những thực tại có thể bóc tách được, chủ yếu tùy vào ước muốn của các cá nhân hay của các đôi bạn”.[47] Việc thông cảm sự yếu đuối của con người và những phức tạp của cuộc sống, đó là một chuyện; còn việc chấp nhận những ý thức hệ nhắm làm phân rã những khía cạnh bất khả phân ly của thực tại, thì đó lại là chuyện khác. Chúng ta đừng rơi vào tội cả gan thay thế Đấng Tạo Hóa. Chúng ta là những thụ tạo, và chúng ta không toàn năng. Công trình sáng tạo có trước chúng ta và phải được đón nhận như một quà tặng. Đồng thời, chúng ta được mời gọi bảo vệ nhân tính của mình, và điều này trước hết có nghĩa là đón nhận nhân tính ấy và tôn trọng nó như nó đã được sáng tạo nên.

57. Tôi tạ ơn Thiên Chúa về nhiều gia đình, dù họ không hề dám tự nghĩ mình hoàn hảo, nhưng đang sống trong yêu thương, đang chu toàn tiếng gọi của mình và tiếp tục bước tới, cho dẫu họ vấp ngã nhiều lần trên đường đi. Những suy tư của Thượng Hội Đồng cho chúng ta thấy rằng không có nguyên mẫu cho gia đình lý tưởng, mà đúng hơn đó là một bức khảm đầy thách đố hình thành từ nhiều thực tại khác nhau, với tất cả những niềm vui, hy vọng, và những vấn đề. Các hoàn cảnh liên quan tới chúng ta quả là những thách đố. Chúng ta không nên mắc kẹt trong việc phung phí năng lực vào những than thở ai oán, thay vào đó hãy tìm kiếm những hình thức mới cho tính sáng tạo trong sứ mạng. Bất luận tình huống nào, “Giáo Hội vẫn ý thức rằng cần phải cung ứng một lời của sự thật và hy vọng… Các giá trị lớn lao của hôn nhân và của gia đình Kitô giáo tương ứng với một khát vọng gắn không rời với hiện sinh con người”.[48] Dù chúng ta nhìn thấy bao nhiêu vấn đề đi nữa, thì – theo cách nói của các giám mục Colombia – những vấn đề ấy nên là một lời hiệu triệu chúng ta “khôi phục niềm hy vọng của mình, biến chúng thành nguồn của những tầm nhìn ngôn sứ, những hành động chuyển hóa, và những dạng thức đầy sáng tạo của đức ái”.[49]

1 2 3 4 5

Comments are closed.