GIÁO DỤC NHÂN BẢN – Bài 6: VĂN HÓA
I- Văn hóa là gì?
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
II- Văn hóa với các khái niệm văn minh, văn hiến, văn vật
Văn minh (văn = vẻ đẹp, minh= sáng) là khái niệm mang tính quốc tế, có nguồn gốc từ phương Tây đô thị và chỉ trình đồ phát triển nhất định của văn hóa chủ yếu về phương diện vật chất.
Ở Việt Nam còn có các khái niệm ‘văn hiến’ và ‘văn vật’. Tự điển thường định nghĩa văn hiến là “truyền thống văn hóa lâu đời” còn văn vật là “truyền thống văn hóa biểu hiện ở nhiều nhân tài và nhiều di tích lịch sử, “công trình, hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử”. So sánh các định nghĩa này, ta thấy ‘văn hiến’ và ‘văn vật’ thực ra chỉ là những khái niệm bộ phận của “văn hóa” chúng chỉ khác văn hóa ở độ bao quát các giá trị: văn hiến: là văn hóa thiên về “truyền thống lâu đời” mà truyền thông lâu đời còn lưu giữ được không bị chiến tranh và thời gian hủy hoại chính là các giá trị tinh thần, còn văn vật là văn hóa thiên về các giá trị vật chất (nhân tài, di tích, công trình, hiện vật) chính vì vậy mà ông cha ta thường nói đất nước 4000 năm văn hiến (chứ không nói văn vật, vì trải qua 4000 năm, phần lớn các giá trị vật chất bị tàn phá), nhưng lại nói Hà nội – Thăng Long ngàn năm văn vật vì trong 1000 năm trở lại đây, từ khi Lý Công Uẩn định đô ở Thăng Long các giá trị vật chất còn lưu trữ được nhiều).
Phương Tây không có hai khái niệm ‘văn hiến và văn vật” cho nên hai khái niệm này không thể dịch ra các ngôn ngữ phương Tây đượ Văn vật và văn minh tuy cùng thiên về giá trị vật chất, nhưng lại rất khác xa nhau
Để dễ phân biệt các khái niệm văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật những điều nói trên được trình bày trong bảng:
III- Cấu trúc văn hóa xã hội của người Việt
1- Nhận định chung về con người Việt Nam
Đã cho những nghiên cứu lớn về con người Việt Nam, thí dụ như của Viện Nghiên cứu xã hội Hoa Kỳ, kết quả rất đáng cho chúng ta lưu ý. Viện này đã đưa ra 10 đặc điểm của người Việt Nam như sau:
1. Cần cù lao động, song để thỏa mãn nên tâm lý hưởng thụ còn nặng.
2. Thông minh, sáng tạo, song chỉ có tính chất đối phó, thiếu tư duy dài hạn, chủ động.
3. Khéo léo, song không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm).
4. Vừa thực tế, vừa mở rộng song lại không có ý thức nâng cao lên thành lý luận.
5. Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh song ít học từ đầu đến đuôi nên kiến thức không có hệ thống, mất căn bả Ngoài ra học tập không phải vì tự thân của mỗi người (nhỏ học vì gia đình, lớn học vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm, ít vì chí khí, vì đam mê).
6. Sởi lởi, chiều khách song không bền.
7. Tiết kiệm song nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời).
8. Có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh, những trường hợp khó khăn, bần hàn; còn trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này ít xuất hiện.
9. Yêu hòa bình, nhẫn nhịn nhưng nhiều khi lại hiếu chiến, hiếu thắng vì những lý do tự ái lặt vặt làm đánh mất đại cuộc.
10. Thích tự lập, nhưng lại thiếu tình liên kết để tạo ra sức mạnh (cùng một việc, một người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng).
2- Về mặt địa lý
Nước VN là một dải đất hình chữ S, nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, phía Đông bán đảo Đông Dương. Dù cùng một nguồn gốc, nhưng người VN lại rất khác với người Trung Hoa ở phía Bắc, với người Lào và Cambodia ở phía Tây, vì những rặng núi hình rẻ quạt ở phía Bắc và dãy Trường Sơn hùng vĩ ở phía Tây đã ngăn cách các dân tộc đó với người VN, ngăn cản phần nào sự hòa nhập của các nền văn hóa khác nhau, phía Đông, Nam và Tây Nam của đất nước là biển Đông và Ấn Độ Dương. Nền văn hóa dân tộc được xây dựng theo truyền thuyết những người con theo mẹ lên núi hái thuốc thành tiên và theo cha xuống biển vượt khó thành rồng. VN có 2860 con sông có chiều dài từ 10 km trở lên (x. Tổng cục du lịch, Non nước VN, Hà nội, 2000, tr9), trong đó có nhiều hệ thống sông lớn như sông Mêkông, sông Hồng. Gắn bó với núi cao, biển rộng, sông dài nên người VN thường có nhiều tình cảm cao thượng, biết nhìn xa trông rộng và gần gũi với thiên nhiên. Những tâm tình tốt đẹp này hình như đang bị sói mòn và biến chất, đặc biệt với làn sóng đô thị hóa hiện nay, nơi những cư dân thành thị sống trong những tòa nhà cao tầng, những căn phòng nhỏ hẹp che chắn tầm mắt con người.
Hướng tiến bị bên núi, bên biển ngăn cản buộc dân tộc phải hướng về phía Nam từ đồng bằng châu thổ sông Hồng ở miền Bắc (rộng 15.000 km2) vượt qua các đồng bằng nhỏ hẹp ở miền Trung để vào tới đồng bằng sông Cửu Long (rộng 40.000km2) ở miền Nam. Bước chân khai phá của người Việt chỉ dừng lại trước biển cả ở cực Nam đất nước, nhưng thiên nhiên vẫn ưu đãi cho dân Việt nên bờ cõi tiếp tục mở rộng về phương Nam vì hằng năm đồng bằng Nam bộ vẫn trải rộng lấn về phía biển từ 60 – 70 Mẹ, do phù sa của các con sông Cữu Long bồi đắp. Người Việt, với tâm hồn của những người tiên phong khai hoang dựng nước, đã không sợ hiểm nguy, dám đối đầu với những thử thách, bất trắc của cuộc sống, đã viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc. Vì thế càng tiến vào miền Nam, người Việt càng hành động phóng khoáng, cởi mở và liều lĩnh hơn.
Khí hậu cũng ảnh hưởng khá nhiều đến tâm tính con người, tình trạng gia đình và hoạt động xã hội. VN nằm hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới của nửa cầu Bắc, nghiêng về chí tuyến hơn là xích đạo nên có nhiệt độ cao, trung bình từ 220-270C. Hằng năm có khoảng 100 ngày mưa với lượng nước mưa trung bình từ 1.500 – 2000 ml/cm2, đổ ẩm khoảng 80%, số giờ nắng khoảng 1.500-2000 giờ/ năm. Do ảnh hưởng gió mùa và địa hình phức tạp, nên khí hậu VN luôn thay đổi trong năm, giữa năm này với năm khác, giữa nơi này với nơi kia (từ Bắc xuống Nam và từ thấp lên cao). Nhìn chung VN có một mùa tương đối lạnh, ít mưa. Nhưng khí hậu các tỉnh ở phía Bắc từ đèo Hải Vân trở ra, thay đổi theo 4 mùa khá rõ rệt với xuân, hạ, thu, đông. Khí hậu này cũng tạo ra những bất lợi về thời tiết vì VN bị bão tố, lũ lụt, hạn hán thường xuyên đe dọa. Do đó, tâm tính người VN có thể nói thay đổi theo kiểu “sáng nắng chiều mưa” hơn những dân tộc sống trong các khí hậu ổn định, ôn hòa. Gia đình từ đó cũng chịu những hậu quả của sự thay đổi thất thường này như: có nhiều cãi vã, xung đột, kém thủy chung hơn. Hoạt động kinh tế xã hội cũng chịu sự thay đổi thường xuyên do các quyết định bất nhất của người lãnh đạo.
Nhận ra sự tác động của thời tiết, ta sẽ thấy người Việt cần tập tính kiên nhẫn, ôn hòa, ý chí vững mạnh, thì mới có thể thực hiện những kế hoạch lâu dài.
3- Về mặt lịch sử
Tiếp đến chúng ta chú ý hơn về con người VN qua các giai đoạn lịch sử hình thành dân tộc, tức là chú ý đến khia cạnh văn hóa xã hội của người Việt.
3.1- Giai đoạn tiền sử: người VN có nguồn gốc dân tộc trong khối các chủng Đông Nam Á (Mongoloid) và chủng phương Nam (Astraloid) vào khoảng 10.000 – 8.000 năm trước Công nguyên (TCN). Sau đó 5.000 năm TCN, chủng cổ Mã Lai (Indonesian) ở miền Đông Nam Á, phối hợp với các chủng Nam đảo, Nam Á để hình thành nên các nhóm Chàm – Môn Khmer – Việt Mường – Tày Thái – Mèo Dao – Tiền Thái – Tạng Miến – Hán: gồm 54 dân tộc VN (x. Lê văn Chưởng, Cơ sở Văn hóa VN, NXB Trẻ, 1999.tr.24-27; Trần Ngọc Thêm, cơ sở Văn hóa VN, NXB Giáo dục, 1999; NN, Niên giám GHCGVN 2005, NXB tôn giáo tr.454-466.) Không gian văn hóa gốc VN thời tiền sử là không gian của các dân tộc có nền văn minh nông nghiệp lúa nước, văn minh đồ đồng và ngôn ngữ đơn lập. Sau đó đến những thế kỷ trước Công nguyên, không gian gốc này bị thu hẹp vì các dân tộc ở vùng Nam sông Dương Tử bị người Trung Hoa bành trướng và đồng hóa.
Người Việt có những nét đặc thù của nền văn hóa nông nghiệp: tôn trọng và hòa hợp với thiên nhiên, có lối sống định canh, định cư và nền kinh tế tự cung tự cấp. Trong mối quan hệ với gia đình, người Việt trọng nữ và nhiều cộng đồng xã hội còn bị ảnh hưởng theo chế độ mẫu hệ. Đời sống nông nghiệp gắn bó chặt chẽ với gia tộc và xóm làng, trọng tình hơn trọng lý, trọng đức hơn trọng tài, trọng văn hơn trọng võ. Lối nhận thức tư duy thiên về tổng hợp, mang tính chủ quan, theo cảm tính và kinh nghiệm hơn là mang tính phân tích khách quan và hợp lý theo một hệ thống suy tư rõ ràng.
Trong cách ứng sử với môi trường xã hội, người Viêt dễ dung hợp trong tiếp nhận, ngay cả trong tín ngưỡng. Ngoài tín ngưỡng bái vật, đa thần, người Việt đón nhận tâm giáo Đông phương: Nho, Phật, Lão, và sau này cả Thiên Chúa giáo. Niềm tin vào một chủ thể tối cao, gọi là Trời mà sau này các tôn giáo khác có thể xác định rõ hơn là Thiên, Chúa Trời, Đức Thượng Đế, Đấng Cao Đài, Đức Allah, Thiên Chúa…lúc nào cũng bàng bạc trong tâm hồn người Việt để thúc đẩy họ tin tưởng và sống theo lương tâm ngay chính của mình. Chính niềm tin ấy giúp cho đời sống họ được an vui. “Lậy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm, lấy rơm đun bếp”, xã hội được ổn định “Trời cao có mắt” ngăn ngừa những hành động ác đức “Thiên bất dung gian”
3.2- Giai đoạn thống trị của các đế chế Trung Hoa kéo dài trong 11 thế kỷ, ảnh hưởng không ít tới con người, gia đình và xã hội VN. Năm 179 TCN, nước Âu Lạc do An Dương Vương Thục Phán (257-208 TCN) lập nên với Thành Cổ Loa bị Triệu Đà, vua của nước VN chiếm. Năm 111TCN, nước Nam Việt bị chuyển sang tay nhà Hán, trên sông Bạch Đằng mới khôi phục được nền độc lập cho đất nước.
Dù sống dưới chế độ hà khắc với chính sách “chia để trị” của ngoại xâm, người Việt vẫn kiên nhẫn chịu đựng gian khổ, biết chờ thời cơ trỗi dậy với cuộc khởi nghĩa Mai Thục Loan (722) Phùng Hưng (766-791). Tuy nhiên vì sống quá lâu dưới ách thống trị, người Việt có đặc trưng thường nhút nhát, sợ sệt, không dám bày tỏ trực tiếp ý kiến của mình, chỉ thân thiện vồn vã bên ngoài để tránh cho quân thù khỏi chú ý, làm hại. Họ dễ nghi ngờ vì nghĩ rằng ai cũng có thể là kẻ thù khỏi chú ý làm hại. Họ dễ nghi ngờ vì nghĩ rằng ai cũng có thể là kẻ thù, thiếu tin tưởng và ít cộng tác với người khác, ngay cả với người thân. Những đặc tính này tạo ra nhiều điểm bất lợi cho đời sống gia đình, vì gia đình là một cộng đồng đòi hỏi mọi thành viên phải tin tưởng để cùng hợp tác với nhau lo cho công ích.
Sự chia rẽ thiếu đoàn kết diễn ra khắp nơi, trong mọi ngành nghề, tổ chức của xã hội và cả trong các tổ chức tôn giáo. Dù thời Bắc thuộc đã qua nhưng những di chứng tiêu cực dường như vẫn còn ăn sâu trong tâm hồn người Việt.
Hầu hết người Việt yêu mến quê hương và chống lại kẻ ngoại xâm. Để biểu thị sự hợp tác, họ chỉ làm việc cầm chừng và ra vẻ chăm chú dưới ánh mắt theo dõi hay dưới làn roi hành hạ của quân thù. Do làm mãi dưới chế độ này người Việt dễ trở thành người làm việc nửa vời, chỉ cố gắng khi có sự quan sát hay theo dõi của người khác thay vì làm việc với sự đam mê hay ý thức trách nhiệm.
Ngoài ra, vì quan niệm tất cả những gì công cộng như vườn cây, đường xá, cầu cống… đều là của chung, do kẻ thù quản lý, nên họ chẳng thiết tha gìn giữ. Hơn nữa những thứ chung đó cũng là siêu cao thuế nặng của đóng cho nhà nước đô hộ nên họ nghĩ có lấy cắp của công cũng chỉ là hoàn trả cho mình, thậm chí có người còn cho rằng: “Ăn cắp của công là không có tội” thái độ này dễ dẫn đến tệ nạn tham ô, lãng phí của công.
Về mặt gia đình và xã hội, Nhà nước đô hộ Trung Hoa thời đó chỉ nhằm khai thác kinh tế nên không chú ý đến việc xây dựng và giáo hóa dân Việt. Bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa Trung hoa, xã hội VN thời đó theo chế độ đa thê: người đàn ông có thể có nhiều vợ, nhiều tỳ thiếp, nhất là những người giầu. Nền kinh tế dựa trên nông nghiệp thô sơ, cần có nhiều lao động khỏe, nên gia đình càng đông con nhiều cháu thì càng tốt, nhất là con trai để nối dõi tông đường. Tinh thần trọng nữ trước đây bị đả phá. Xã hội theo chế độ gia trưởng, mọi quyền hành đều tập trung vào người đàn ông, nên phụ nữ thường bị đối xử bất bình đẳng “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Sống trong hoàn cảnh như thế, người phụ nữ phải âm thầm chịu đựng những thua thiệt và áp bức để thờ chồng nuôi con.
Những người đàn ông làm quần quật suốt ngày ngoài đồng, chiều về họ thường tụ tập bên chén rượu để quên đi nỗi vất vả nhọc nhằn. Những chai rượu làm từ nông sản ấy tuy có giúp họ quên đi những nỗi cơ cực, nhưng lại ảnh hưởng nặng nề tới sức khỏe và hạnh phúc gia đình. Khi người đàn ông say khướt trở về nhà, họ trở thành người nóng tính, hay đánh đập vợ con. Rượu đã tàn phá sức khỏe của họ và làm con cái họ kém thông minh, thân thể yếu ớt. Tình trạng say sưa rất phổ biến ở nông thôn thời trước (ngay cả bây giờ đối với cư dân thành thị) nhưng chính quyền đô hộ vẫn cố tình làm ngơ, thậm chí ngầm khuyến khích để giảm bớt sức đấu tranh của dân tộc Việt.
3.3- Giai đoạn độc lập và thống nhất đất nước dưới thời quân chủ bắt đầu từ thế kỷ X đến thế kỷ XX, trải qua ba triều đại nhỏ là Ngô (939-965), Đinh (968-980), Tiền Lê (980- 1009) và bốn triều đại lớn: Lý (1009- 1225), Trần (1226-1400), Lê (1428-1788), Nguyễn (1802-1945), xen kẽ với ba triều đại nhỏ là: Hồ (1400- 1407), Hậu Trần (1407- 1414), Tây Sơn (1788-1802). Người Việt ra sức củng cố nền độc lập non trẻ bằng các cuộc chiến thắng ngoại xâm. Lê Hoàn thắng quân Tống năm 981 và Lý Thường Kiệt thắng quân Tống năm 1077, Trần Hưng đạo thắng quân Nguyên Mông vào các năm 1258, 1285, 1288. Lê Lợi thắng quân Minh sau 10 năm chiến đấu. Vua Quang Trung, Nguyễn Huệ chiến thắng quân Xiêm (1785) ở Rạch Gầm, Xoài Mút và đại phá quân Thanh vào năm 1789.
Tinh thần ái quốc dâng cao khiến người Việt sẵn sàng hy sinh tình riêng gia đình vì đại nghĩa của đất nước. Bài học của giai đoạn này như giới thiệu cho người Việt, nam cũng như nữ, là phải biết bảo tồn dòng họ của mình, khi mở rộng tình gia đình thành gia tộc. Từng cá nhân phải biết hy sinh quyền lợi cho dòng tộc.
Sự gắn bó với dòng tộc đôi khi quá mức khiến nhiều người lại khép kín với đồng bào, chỉ tin tưởng bao che cho những người thân thuộc, tạo nên sự bất công đối với người khác đến độ “một người làm quan cả họ được nhờ”.
Gắn bó với những người đã khuất trong dòng tộc, người Việt chứng tỏ lòng thảo hiếu qua việc thờ cúng tổ tiên. Người Việt lập bàn thờ tại nhà với bài vị của những người đã khuất, cúng bái trong những ngày sóc, vọng, giỗ, tết. Việc này tạo lại mối tương quan mật thiết với cả những người sống để xóa đi phần nào sự nghi ngại chia rẽ do thời đô hộ để lại.
Gắn bó với đời sống nông nghiệp, người Việt phát triển tình làng nghĩa xóm và các mối quan hệ đồng hương. Tuy nhiên, vì sống mãi trong lũy tre làng, thiếu giao tiếp để mở rộng tầm nhìn nên người Việt dễ hướng tới óc cục bộ, hẹp hòi dánh mất tinh thần trọng tài đức, trọng tình nghĩa trước đây. Cộng thêm bản chất nghi kỵ người khác của thời bị đô hộ để lại, óc cục bộ này đã được nhà nước quân chủ chuyên chế khai thác tối đa trong tổ chức hành chánh làng xã, địa phương dẫn đến việc người Việt khó chấp nhận sự điều khiển, lãnh đạo của người không đồng hương với mình, coi thường luật pháp quốc gia “phép vua thua lệ làng” coi thường cả những giá trị nhân bản như cạo đầu, bôi vôi, bỏ trôi sông những phụ nữ lầm lỡ, chửa hoang. Óc cục bộ ấy vẫn còn mạnh mẽ trong thời đại ngày nay.
Trong thời kỳ này chúng ta ghi nhận ảnh hưởng của Tôn giáo Đông phương, đặc biệt là Khổng giáo. Cả ba đều đến từ Trung Hoa, chỉ riêng Phật giáo lại chia làm hai ngả, theo con đường Đồng Cỏ vào miền Bắc VN và theo con đường Hồ Tiêu vào miền Nam VN.
Phật giáo ảnh hưởng đến nhiều quần chúng bình dân, nhất là dưới thời Lý – Trần với thuyết luân hồi, với Tứ Diệu Đế, với luật Nhân Quả để nuôi dưỡng lòng đạo đức, giải thích cho người dân hiểu nguồn của bể khổ đời người là do lòng dục, vì thế muốn diệt khổ phải từ khước lòng dục của mình bằng cách theo Bát Chánh đạo.
Khổng giáo hay Nho giáo là hệ thống các nguyên tắc đạo đức, chính trị do Khổng Tử lập ra nhằm duy trì trật tự của xã hội phong kiến nên ảnh hưởng nhiều đến vua quan và quần chúng trong cách tổ chức xã hội ở Trung Hoa và ảnh hưởng nhiều đến VN. Nho giáo khởi đầu với việc lập Văn Miếu (1070), Quốc Tử Giám và tổ chức thi cử (1076) và càng ngàycàng chiếm ưu thế cho đến khi đạt được địa vị độc tôn vào thế kỷ XVIII – XIX. Người VN ứng sử trong các quan hệ cá nhân, gia đình, họ hàng, làng xóm, vua quan theo những chuẩn mực của lễ nghĩa Nho giáo như Tam Cương – Ngũ Thường, để có thể “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Những chuẩn mực của Nho giáo có mặt tốt là giữ cho xã hội được trật tự, ổn định, nhưng nhà nước quân chủ chuyên chế lại dùng chúng như một phương tiện áp chế con người, khi tôn vinh vua là ‘Thiên Tử’ (con trời), nắm trọn quyền sinh sát trong tay “quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung”. Những vị Nho gia ăn theo chế độ ít người dám nghĩ, dám làm với tầm nhìn xa trông rộng để “trị quốc, bình thiên hạ” mà chỉ trở thành những nhà trí thức luẩn quẩn với những bài phú, bài thơ ca tụng chế độ, suy tôn mù quáng một con người dù người đó bất tài, thất đức hoặc nhai đi nhai lại những câu trích dẫn thuộc lòng trong Tứ Thư Ngũ Kinh. Cách học từ chương và chế độ thi cử của Nho giáo này đã trói buộc những sáng kiến suy tư của người Việt và còn ảnh hưởng đến ngày nay.
Chúng không những không cải tạo được tình trạng đa thê hay bất bình đẳng nam nữ, như ta từng thấy trong thời bị Trung Hoa đô hộ mà còn làm cho người phụ nữ càng bị lệ thuộc hơn vào người đàn ông “trai thì năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng”, vào dòng họ của chồng “lấy chồng thì phải theo chồng, lấy chồng thì phải gánh giang san nhà chồng”. người phụ nữ chỉ còn là cái bóng của người đàn ông vì họ được dạy phải có đủ tam tòng “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” tứ đức “công, dung, ngôn, hạnh” chứ không còn là một con người thật sự độc lập với giá trị làm người.
Sống trong nền quân chủ chuyên chế độc tài, người dân không được phép có nhiều phương tiện vật chất, nhiều nông, nô vì sợ bị phản loạn. Nhưng dù có nhiều tiền họ cũng không được phép tiêu xài, không được cất nhà theo ý mình, thậm chí không được ăn mặc theo ý thích. Họ cũng không được học rộng vì càng có nhiều tư tưởng mới lạ, họ càng dễ ra ngoài sự kiểm soát của chính quyền: chỉ cần một câu thơ không rõ ý cũng có thể bị kết tội phản nghịch và bị chu di tam tộc. Mỗi làng chỉ có được vài người đi học còn tất cả nam cũng như nữ, già cũng như trẻ đều đầu tắt mặt tối với công việc đồng áng. Chính sách ngu dân này làm cho người Việt không phát triễn óc suy tư, sáng tạo, càng làm cho cuộc sống của họ thêm cơ cực, nghèo túng.
Cuối cùng Lão giáo du nhập vào VN đồng thời với Phật giáo và Nho giáo ngay từ thời Bắc thuộc, đến thời vua Đinh Tiên Hoàng (cuối thế kỷ X) đã khá phát triển ở nước ta. Lão giáo chủ trương vô vi (không làm) ‘nghĩa là chủ ý cốt theo cách tự nhiên thanh tĩnh không cần phải làm gì, nghĩa là muôn sự cứ phó mặc thiên nhiên, không cần phải lo lắng, nghĩ ngợi mới hưởng sự khoái lạc phiêu diêu” (Toan Ánh, Nếp cũ – tín ngưỡng VN, quyển Thượng, NXB TP.HCM,1992, tr.221). chủ trương này đúng ra là thái độ sống của những nhà trí thức Nho giáo, dần dần đạo Lão đi vào các tầng lớp bình dân và biến thể thành những hình thức bí hiểm mê tín như phù phép, sấm ký, chầu đồng, thẻ xăm, bói toán với các thần tiên ẩn thân trong vạn vật: “bếp thì có ông Táo, đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”. Tuy nhiên, cái nhìn linh hóa vạn vật này lại giúp cho người VN vượt qua thái độ quá chuộng hình thức lễ nghĩa tỉ mỉ, vụn vặt của Nho giáo để đến gần với thiên nhiên và tìm được sự khoáng đạt cho tâm hồn.
Chúng ta không thể không nhắc đến ảnh hưởng của Kitô giáo trong thời kỳ này – Kitô giáo được truyền vào VN là đạo Công giáo theo lễ nghi Roma, qua các giáo sĩ dòng Đaminh, dòng Phanxico, Dòng Augustino người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha vào thế kỷ XVI, nhất là các giáo sĩ dòng Tên vào thế kỷ XVII. Các giáo sĩ này nói được tiếng Việt, sáng lập ra chữ quốc ngữ, và đóng góp nhiều về khoa học cũng như xã hội cho các vua chúa của cả hai miền Nam Bắc. Họ truyền bá với một giáo thuyết khác với tôn giáo Đông phương về nhiều điểm nên gặp sự chống đối mãnh cho người đều có giá trị cao quý như nhau vì đều là con cái Chúa, đều tự do và bình đẳng trước pháp luật chứ không phải vua có toàn quyền sinh sát trong tay, hôn nhân một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng và có giá trị như nhau.
Điều không may cho Công giáo là vào thời điểm này, các đế quốc thực dân đi chiếm lục địa và các nhà truyền giáo lại theo chân họ vào VN gây nên nhiều hiểu lầm và cả những cuộc bách hại. Khi quân đội Pháp bắn thị uy vào cảng Đà Nẵng (1847) và nhanh chóng chiếm được các tỉnh miền Đông Nam kỳ (1862), rồi đặt nền đô hộ từ 1862-1945 thì người VN như bừng tỉnh trước sức mạnh trổi vượt về quân sự, khoa học, kỹ thuật của quân thù trước chính sách bế quan tỏa cảng của vua quan, dẫn đến ngu dốt, lạc hậu, yếu kém. Họ giống như người Trung quốc bừng tỉnh sau cuộc chiến tranh Nha phiến (1839-1842) và thấy rằng: “Cái học nhà Nho đã hỏng rồi” (Trần Kế Xương). Họ muốn được như người Nhật cởi mở với nền văn minh kỹ thuật của phương Tây nên phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương văn Can đã ra đời. Dân tộc VN bước vào một thời kỳ mới.
3.4- Thời kỳ phát triển và hội nhập với thế giới (1945-2000). Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn ở Hà Nội, khai sinh nước VN Dân Chủ Cộng Hòa. Ngay sau đó thực dân Pháp trở lại xâm lược Đông Dương và nhân dân VN đã kháng chiến để bảo vệ nền độc lập. Thế giới vào thời điểm (1945-1975) chia thành hai phe Tư bản và Cộng sản xung đột mãnh liệt với nhau. Do hoàn cảnh và vị trí đặc biệt, VN lại trở thành giới tuyến cho hai phe phái trên đây. Sau chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), với hiệp định Genève, người Pháp rút khỏi miền Bắc VN, nước VN tạm thời bị chia làm hai miền theo vĩ tuyến 17: miền Bắc là nước VN Dân Chủ Cộng Hòa theo chế độ Cộng Sản; miền Nam là nước VN Cộng Hòa theo chế độ Tư Bản. Từ năm 1964- 1975, chính quyền Cộng Sản ở miền Bắc lãnh đạo cuộc chiến tranh chống lại chính quyền Tư Bản ở miền Nam. Ngày 30-4-1975, chính quyền Sai Gòn ở miền Nam sụp đổ, VN hoàn toàn thống nhất, lấy tên là nước Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa VN.
Trong cuộc chiến tranh giữa hai ý thức hệ, kẻ thù đã khai thác triệt để sự chia rẽ và phân hóa của người Việt có từ thế kỷ XVIII với Trịnh Nguyễn phân tranh, thế kỷ thứ XIX- XX với ba miền Bắc – Trung – Nam của thực dân Pháp để “người Việt thù người Việt, người Việt giết người Việt”. Biết bao cuộc xung đột, giết hại nhau chỉ vì những sự khác biệt về tôn giáo, sắc tộc, đảng phái…để lại những di chứng cho đến ngày nay khiến cho người Việt càng khó cộng tác và tin tưởng lẫn nhau.
Cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc (1953-1956), với những màn đấu tố, đã phá hoại truyền thống hiếu hòa, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, làm tan vỡ luân thường đạo lý của gia đình xã hội khi cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh em, hàng xóm, bạn bè…dùng những hình thức dối trá để tố cáo, giết hại lẫn nhau. Nỗi sợ hãi tột cùng của thời ấy đã ăn sâu vào tiềm thức – vô thức, tạo nên nếp sống khép kín và giả dối của nhiều người.
Còn nhiều người trẻ ở miền Nam có tâm trạng “Yêu cuồng, sống vội” hối hả hưởng thụ cuộc sống trước khi phải ra chiến trường, với tâm trạng không cần biết đến ngày mai, vì nghĩ rằng bom đạn vô tình có thể phá hoại tất cả những gì người ta xây dựng hôm nay.
Bỏ qua sự khác biệt về nhiều lãnh vực, cả hai chế độ có nhiều điểm tích cực đó là đóng góp vào tâm tính người Việt: tinh thần yêu chuộng những điều mới mẻ dựa trên khoa học kỹ thuật để phát triển đời sống, vượt qua những mê tín dị đoan thời trước và sự cố gắng làm việc để có nhiều phương tiện vật chất làm cho đời sống được ấm no hạnh phúc.
Từ năm 1975 đến nay, người Việt cố gắng xây dựng lại đất nước bằng cách du nhập các lối sống và khoa học kỹ thuật cả các nước trong cộng đồng thế giới. Họ trở thành những con người hiểu biết nhờ trình độ văn hóa được nâng cao. Nếu như trước kia cả làng chỉ có một hai người biết chữ để làm văn tự, sổ sách, thì giờ đây hầu như mọi người đều được khuyến khích đi học, mọi trẻ em bắt buộc phải đi học. Qua việc học hành và các phương tiện truyền thông như báo chí, sách vở, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, và cả mạng lưới thông tin toàn cầu (Internet), người Việt càng ngày càng thông thạo khoa học, phát triển nền kinh tế, khai thác được các nguồn tài nguyên phong phú của đất nước.
Nếu như trước đây người VN tin vào Trời – Phật độ trì, vào thiên mệnh của Nho giáo, vào Thiên Chúa của Kitô giáo vào ông bà tổ tiên chứng giám thì giờ đây, những bài học bài bác thái độ duy tâm, đề cao chủ nghĩa duy vật từ 30 năm qua dường như đang có hiệu quả rõ rệt là xóa bỏ niềm tin mang tính tín ngưỡng ấy của người Việt. Nhưng một khi con người đánh mất ý nghĩa của đời sống tinh thần, chối bỏ sự hiện diện cả chủ thể luân lý tối cao như là nền tảng cho đạo đức xã hội thì người ta dám làm bất cứ điều gì để chiều theo những tham vọng và dục vọng! Luật pháp không có khả năng khám phá tất cả những hành động bí ẩn của con người bắt nguồn từ trong tâm trí. Vì thế khi tin vào một chủ thể luân lý tối cao nhìn thấu lòng mình (Trời cao có mắt) con người mới ý thức và tự nguyện sống theo lương tâm ngay chính, vượt qua những quyến rũ của vật chất, đam mê để sống đạo đức. Từ căn bản đạo đức này, người Việt mới có thể vượt qua những tệ nạn như: dối trá, tham nhũng, quan liêu, lãng phí, phá thai…đang tràn lan trong xã hội hiện thời. Như thế, suy cho cùng thì sự có mặt của các tôn giáo rất cần thiết cho xã hội. Một số ít người đã nhận ra điều ấy và đang cổ vũ cho những lễ hội dân gian hoặc tham gia các lễ nghi tôn giáo. Nhưng nhiều người VN chưa ý thức được điều này.
Vấn đề đặt ra cho chúng ta là làm sao xây dựng một nền đạo đức xã hội của con người VN và thấy nhiều tầng xấu tốt xen lẫn chồng chất lên nhau như những lớp đất của các tầng địa chất. Để trồng được cây lành trái ngọt, hay xây dựng công trình lớn lao lâu dài cho dân tộc VN, chúng ta phải biết rõ từng lớp đất, loại bỏ những lớp đất bạc màu trước khi “trồng người”.
Công việc xây dựng và hoàn hiện giá trị con người VN thời công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Đảng Cộng Sản đề ra trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đang mời gọi mỗi người cố gắng ý thức và hoàn thiện chính mình, nghĩa là loại trừ những tật xấu và tập luyện những tính tốt nơi mình. Những công việc của từng cá nhân này chỉ có thể thực hiện với sự giúp đỡ của tập thể và cộng đồng để giúp họ khám phá ra những đức tính xã hội căn bản và những tật xấu thường có nơi người Việt. Sau đó phải tìm được những biện pháp hay đường hướng thích hợp để hoàn thiện nhân cách theo từng độ tuổi hay môi trường sống. Những công việc này đòi hỏi sự cộng tác chặt chẽ của các nhà tâm lý, khoa học, giáo dục cũng như các văn nghệ sĩ, những nhà truyền thông xã hội…
Riêng đối với người tín hữu Công giáo, chúng ta càng phải tích cực cũng như chủ động trong việc xây dựng và hoàn thiện giá trị con người VN theo Tin Mừng vì con người là đối tượng chính yếu trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa và là đích điểm cứu độ của Đức Giêsu Kitô. Không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng người môn đệ Chúa Kitô (Công đồng Vaticano II, x. Gaudium et Spes, số 1).
Nguồn: http://thuviensdb.org/index.php/he-thong-du-phong/item/115-giao-duc-nhan-ban