Bước Tiến Thiêng Liêng Và Những Giai Đoạn

BƯỚC TIẾN THIÊNG LIÊNG VÀ NHỮNG GIAI ĐOẠN (p.1)

ĐÂU LÀ HƯỚNG ĐI VÀ NHỮNG BƯỚC TIẾN

Siêu nhiên là chính tự nhiên được biến cải vượt mình, nên đời sống siêu nhiên cũng dịch biến như đời sống tự nhiên. Đã nói đến dịch biến, thì phải có tiến có thoái, có cao có hạ. Mà tiến thoái và cao hạ, thì phải có tiêu chuẩn để đánh giá, đỉnh cao để hướng về. Mà hễ tiến tới và đo lường được, thì cũng có thể chia tiến trình thành những giai đoạn khác nhau. Vì những giai đoạn ấy được sắp xếp trước sau so với điểm khởi và đích tới, nên chúng cũng làm nên những thang bậc mà đỉnh cao là toàn thiện.

Vậy xét theo lý, thì phải có bước tiến khi đã xác định xong hướng tiến. Xác định được hướng tiến và bước tiến sẽ biết lúc này ta đang ở đâu, còn bao xa để tới đích, rồi liệu cách đi thêm nữa.

Con người sinh ra trong bùn nhơ tội lỗi (Tv 50,7), nên cái mà nó khao khát là sự trắng trong. Có lẽ vì thế nên ước mong thầm kín đã ngầm được gửi gắm ở nguyên tiêu Đại mẫu đồng trinh, rồi từ đó ở lòng tôn sùng Đức Maria vô nhiễm thai và trọn đời tinh tấn.

Nếu Kitô giáo hôm nay nhấn vào đồng trinh và vô nhiễm, thì Phật giáo lại đề cao Vô dục (a-kâma). Đối với sự trắng trong, nếu đồng trinh là biểu hiện thể lý và vô nhiễm nói lên thực trạng bây giờ, thì vô dục lại nhấn vào khả năng miễn nhiễm của lòng ta.

Thật ra, sự vô dục hay siêu thoát cũng được đề cao trong đời tu Kitô giáo dưới những cái tên như Bất thụ cảm (a-patheia), từ bỏ (renoncement, abnégation), không vấn vương (détachement). Và nếu Phật giáo cho rằng chân lý sẵn đây rồi, chỉ cần gạt bỏ tham si, là thấy ngay, tức giác ngộ, thì Kitô giáo cũng coi thánh thiện đã có mầm nơi ân sủng, khiến chỉ cần lấy đi những cản trở, thì Thần khí vào cuộc sẽ hoàn thành tác phẩm ngay. Như thế, phải chăng nên thánh cốt ở Dọn sạch và Vét rỗng?

Hơn nữa, Chúa đến là để diệt tội và diệt cái chết thiêng liêng vốn là hậu quả của nó, nên xem ra được giải thoát khỏi tội, thành vô nhiễm hay miễn nhiễm đối với tội là điều Chúa nhắm cho ta khi giáng trần và chịu chết.

Có điều hình như Vô nhiễm và Vô dục chỉ là điều kiện hay hậu quả của một ân huệ tích cực hơn. Vì không những chết, Chúa còn phục sinh trong một sự sống khác hẳn. Và theo thánh Phaolô, nếu Chúa không sống lại, thì tin cũng thành vô ích (1Cor 15,17). Do đó, việc tái sinh trong nước và Thần khí mới là đích thật của cái chết cứu chuộc.

* * *

Một quan điểm khác về thánh thiện, nó thường ngự trị trong đầu của khá nhiều tín hữu đạo đức: Nên thánh là lập công, là tích góp công đức (mérites) (Công giáo Việt xưa dịch Mérites là Công nghiệp).

Vì công đức, người ta đọc hết tràng hạt này đến tràng hạt kia. Vì công đức và ơn toàn xá, người ta viếng đi viếng lại nhà thờ, mỗi lần đọc sáu kinh Lạy Cha, Kính mừng, Sáng danh. Vì công đức, người ta năng đi lễ, chịu lễ, cúng tiền vào nhà thờ… Thánh thiện theo số lượng, và nên thánh bằng tính cộng, tính nhân!

Tu sĩ Kitô giáo, ngoài việc đếm kinh và đếm việc lành ra, còn cố sống đạo hạnh nữa. Nhưng dường như đức hạnh cũng được xem như thành quả của việc tích góp các việc thiện và thiêng liêng. Thật ra, không thiếu kẻ cho rằng: Thánh là do ân sủng. Có điều chính ân sủng cũng được coi là sở hữu, với số lượng ít hay nhiều, do đó được tích góp, bằng những lần chịu lễ, viếng Thánh Thể chẳng hạn.

Nói cho đúng, ân sủng là vô thường, lại thiêng liêng nữa, nên không do tích lũy mà thành, không do công tôi mà có được đâu. Ân sủng hoàn toàn do sự quảng đại của Chúa. Ân sủng lại là chính Chúa đang yêu tôi, là chính tôi được cải hóa bởi tình yêu này. Nên vấn đề không còn là số lượng và sở hữu nữa. Vâng, thánh là con người tôi nó thánh. Thánh thiện là giá trị (valeur): giá trị thiêng liêng của một con người. Là “giá trị”, nên đây là vấn đề phẩm cách (dignité), không do tích góp mà nên. Của một con người, nên đây là vấn đề hiện hữu, chứ không phải sở hữu. (Xem thêm K. Rahner, Eléments de théologie spirituelle, tr.10).

Do đó, thánh thiện không nằm ở chỗ tôi thấy mình giàu lên, dù giàu bằng của cải thiêng liêng, bằng đức tính, bằng ân sủng (ở chỗ được coi như sở hữu). Mà ở chỗ tôi thấy mình thật nghèo, chẳng có gì hết. Đây là “Hư kỳ tâm”, “Thanh bần trong tâm hồn”, mà trên nền tảng (rỗng) ấy xây dựng lâu đài Chúa và kho tàng không mối mọt của ta.

* * *

Nhà tu xưa quen đặt thánh thiện ở huyền nghiệm. Cũng như Samâdhi và Giác ngộ trong Phật giáo ấy mà. Thật ra, ngay Phaolô cũng đề cao con đường tri thức khi nói đến sự lớn lên trong Chúa nhờ gia tăng trong hiểu đạo (Ep 4,15; Cl 1,10; 2Cr 10,15). Và Phêrô cũng chung một quan điểm (1Pr 2,2; 2Pr 3,18). Xem như đỉnh cao của hiểu đạo đã thành một với đích cuối của phát triển: đạt tầm vóc Đức Kitô ở độ sung mãn của Ngài: làm sao để cuối cùng rồi tất cả cũng đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự hiểu biết Con Thiên Chúa, đạt tới tình trạng hoàn thiện, tới tầm vóc đức Kitô trong sự sung mãn của Ngài (Ep 4,13).

Như thế, phải chăng sự hiểu Chúa làm nên thánh thiện? Hay sự hiểu biết ấy chỉ tiến cùng chiều với thánh thiện thôi, như điều kiện hay biểu hiện tất yếu của nó?

Thế nhưng về thánh thiện, Phaolô cũng nói nhiều đến sống tốt, đến việc nên giống Chúa và thành một với Ngài. Phải chăng mức thánh ấy tùy vào độ đồng hóa kia?

Thêm vào đấy, để nên một với Chúa và cùng “giống” với Ngài, Chúa lại đưa ra một điều kiện, xướng lên một nguyên tắc:

Mẹ Ta và anh chị em Ta, đó là kẻ thi hành ý Cha Ta!

Đấy là Thuận Thiên. Không phải Thuận Thiên để nên giống Chúa, vì Thuận Thiên giống Chúa, là cùng dòng giống với Ngài. Thước đo không còn là biết nữa, mà là cách sống, cách hành động: Thi hành ý Cha! Vậy nên thánh thuộc phạm vi đời sống, và thánh là chính con người thánh, đã thành “con người thiêng liêng”, tức theo dạng Thần khí (lCor 2,13-3,1; Gl 6,1).

Con người dạng Thần khí là kẻ sống theo sự hướng dẫn của Thần khí, được đặt hoàn toàn dưới tác động của Ngài, do đó nhu thuận tối đa, nghĩa là Thuận Thiên hết mức, nhờ đó thành bà con với Đức Kitô. (Xem thêm Fr. Roustang, Une initiation à la vie spirituelle, tr. 181 – 182).

Vậy trong ý nghĩ thầm kín của Phaolô, thánh thiện bao trùm toàn cuộc sống, từ tri đến hành, chứ không phải của tri suông, dù do ảnh hưởng giáo dục, ông hay nhấn vào tri thức. Nhưng thử hỏi quan trọng nhất là yếu tố nào đây: tri thức hay hành động, hoặc chính con người chúng ta? Và đâu là vị thế của mỗi yếu tố trong tương quan với nhau?

Trước khi đưa ra một giải đáp, chúng ta hãy tìm xem trong truyền thống, cộng đồng Dân Chúa đã nghĩ thế nào.

TRUYỀN THỐNG VỚI TIẾN TRÌNH NÊN THÁNH

Dù đặt đức Ái lên chỗ tối cao, dù nói nhiều đến sự sống mới, xem ra Phaolô vẫn mải mê với tri nghiệm (sofia, gnosis). Chắc vì ông là tử đệ Platon, cũng như mọi trí thức như ông thời ấy, dù trong Do thái giáo hay Kitô giáo cũng vậy. Ngoài Platon thuyết, sau này còn ảnh hưởng Manès thuyết nữa. Dù chống lại nghiệm tri chủ nghĩa (gnosticisme), các giáo phụ vẫn chia sẻ với họ cùng một khuynh hướng: hướng trí thức, và một số quan điểm. Cũng do đó, mà ngay khi bắt đầu phác họa lý thuyết về tiến trình nên thánh, họ đã đặt nghiệm tri làm đích tới và đỉnh cao.

Với Clément thành Alexandria, kẻ nghiệm tri thấy điều huyền ẩn, vô sắc tướng. Nên để huyền tri, phải khử bỏ ngôn từ. Cố nhiên là phải luyện đức nữa. Thế nhưng đức hạnh thuộc “con đường hành động” (voie des oeuvres), mà con đường này chỉ là cửa dẫn vào “con đường nghiệm tri” (voie de la gnose) thôi. “Con đường nghiệm tri” rỗi sẽ được gọi là “đời sống chiêm” (vie contemplative), để chỉ kẻ chiêm hay nghiệm tri mới là kẻ toàn thiện (perfectus), vượt trên hẳn kẻ tin vốn là kẻ chưa thấy. Thật ra, kẻ nghiệm tri cũng là và luôn là kẻ đức hạnh nữa, vì đức hạnh là hậu quả và giãi sáng của nghiệm tri.

Rõ ràng hơn, Origène và Evagre miền Pont chia đời sống thiêng liêng thành hai giai đoạn, với giai đoạn trước là hành (pratique), giai đoạn sau là tri (gnose). Hành là đời sống đức hạnh nó dọn đường cho huyền tri như đích điểm. Sự dọn đường ấy được coi như một tu tập tâm lý nó đặt nền trên một lý thuyết vừa thần học vừa siêu hình học. Đây là trường học Apatheia, Bất thụ cảm, mà mục tiêu là biến tâm hồn thành trơ như đá trước những tác động từ ngoài. Có lẽ đây cùng loại với cái mà Phật, Ấn giáo gọi là Bình, chẳng còn phân biệt thân sơ, ưa ghét gì nữa. Có thế mới tập trung được sức mạnh cho chiêm ngưỡng, cho huyền tri Thiên Chúa, nhất là ở gốc nguyên thủy của Ngài: Một thể vô thanh vô danh.

Hành, hay Thực hành (pratique) cũng được chia thành nhiều giai đoạn, nhưng đây là một phân chia theo lý, theo thang cấp các đức tính, mà đỉnh là đức Ái, cố nhiên. Vâng, một phân chia theo lý, tức hình thức thôi, không đếm xỉa đến chuyển biến tâm lý tự nhiên, dù là của con người thiêng liêng nơi chúng ta. Lại dù đức Ái cũng chỉ thuộc Thực hành, nên ở ngưỡng cửa dẫn vào huyền thức. Chỉ huyền thức mới kết hiệp ta với Lời, nhờ đó cho ta dự vào tri thức ẩn tàng trong Đại trí đấng Tối cao.

Với Grégoire thành Nysse, ta có một học thuyết về thang bậc đời sống thiêng liêng. Có điều đây cũng chỉ là thang bậc huyền tri, mà huyền tri là thấy. Chúa trực tiếp nơi tấm gương đã thành trong sáng của linh hồn. Kế đó, Giả – Denys thuộc Aéropage phát minh lý thuyết nổi tiếng sau này về Tam đạo (nói về ba giai đoạn và ba cấp): thanh đạo (katharsis), minh đạo (fotismos), toàn hiệp đạo (teleiosis-henosis), với cùng một hướng đi và đích nhắm là nghiệm tri.

Với Augustin, đệ tử Tân Platon phái của trời Tây, thì bước tiến về toàn thiện cũng là bước lên trong tri nghiệm, từ cái đa dạng hình của thế giới đến sự trong suốt vô sắc thanh của Siêu việt thể. Cũng có lúc Augustin phác họa một thang cấp khác, với thước đo là Tình yêu. Và đây là tình yêu khởi sự (incipiens), tình yêu đang tiến (proficiens), tình yêu lớn, tình yêu hoàn thành (perfectus). Hay dưới những danh hiệu khác: tình yêu thoát thai, tình yêu được nuôi dưỡng, tình yêu tăng cường, tình yêu hoàn thành (accompli) (Về học thuyết các giáo phụ trên đây, chúng tôi nói theo Viller – Rahner: Ascese und Mystik in der Vãterzeit – Khổ hạnh và huyền nhiệm thời giáo phụ – được tóm tắt trong K. Rahner, élements de théologie spirituelle, tr.13tt.). Lược đồ này rồi sẽ được khai thác vào thời trung cổ, cùng với lược đồ của Giả-Denys Aéropage.

Đúng là vào thời trung cổ, đã tái xuất giang hồ cả hai lược đồ của Giả-Denys và của Augustin, với ít nhiều đổi thay về từ ngữ, khá nhiều đổi thay về nội dung. Cái thang bốn cấp nay rút lại còn ba: Incipiens, Prohciens, Perfectus (x. Tôma, s. Th. IIa IIae, q. 24, a.9; q. 183, a.4). Hai lược đồ dắt nhau mà đi, cùng với ba bước cả. Lắm khi nội dung còn thấm sang nhau, để cùng biến đồi với nhau, đến nỗi Perfectus thành kẻ huyền tri, và Hiệp đạo thành đỉnh cao đức Ái.

Thật ra, ba bước Khởi-Tiến-Thành hồi trước mới chỉ là những cái vỏ hình thức không nội dung. Nội dung được mang vào, nhất là từ thế kỷ XIII, thời cực thịnh của kinh viện, tức tư tưởng “nhà trường” (Schola – école – là trường học. Nên Théologie scholastique đáng lẽ phải dịch là Thần học học viện. Mà thật ra, nó có môi trường hoạt động là các đại học). Theo Bonaventura, thì ở bước Khởi, người ta mới chỉ biết Chúa qua môi giới sự vật hữu hình vốn là hình ảnh Chúa. Ở bước Tiến, người ta thấy Chúa trong linh hồn nó là hình ảnh thiêng liêng và hằng cửu của Ngài. Còn ở bước Thành, Thiên Chúa được gặp trong huyền tri, ở đó con người được biến cải trong đấng đáng kính yêu. Đây là giai đoạn được Bonaventura gọi là “phút giây huyền nhiệm… thật bí ẩn”, đỉnh cao nhất của tiến trình thiêng liêng, đỉnh cao được Gioan Thánh giá gọi bằng cái tên “Hôn phối thiêng liêng”, mà đường tới là Vét rỗng, Bóc trần qua những đêm tối thử thách: đêm tối giác cảm nó lấy đi chỗ dựa cảm tính, đêm tối tinh thần nó bắt ta phải nhắm mắt đưa chân bằng một đức tin trần trụi.

Cả Gioan Thánh giá lẫn Tiên sa Avila đều là bậc thầy về chiêm niệm trong đời sống đan tu. Họ nói bằng kinh nghiệm nhưng trong đường hướng cũ. Cái mà họ quan tâm nhất vẫn là suy chiêm và huyền nghiệm. Họ cũng nói đến tu thân bằng từ bỏ và luyện đức, nhưng họ chỉ đề cập đến đạo đức trong liên đới với nghiệm tri.

Gioan Thánh giá nói theo lược đồ Khởi-Tiến-Thành, mà đỉnh cao là sự hiệp nhất với Chúa trong huyền nghiệm. Để tiến cao trong huyền nghiệm, cũng là trong hiệp nhất, cần phải được thanh luyện hoài hoài bằng từ bỏ và đêm tối.

Tiên sa Avila chia tiến trình nên thánh thành bảy cung phòng (từ ngoài vào trong) hay Bốn cấp tưới nước (xét theo sự dễ dàng và công hiệu). Sự hiệp nhất với Chúa đi cùng chiều với các cấp huyền tri. Thật ra, chiêm cũng cần đến hành (như hãm mình) để hỗ trợ. Hành (hay thực hành) có thể làm tiến cao kha khá (vâng, kha khá thôi) dù không có chiêm, nhưng không thể chiêm mà không thực hành (Con đường toàn thiện, ch. 4). Thật ra, hễ có chiêm, người ta cũng có đức như hiệu quả của chiêm (ch. 17).

MỘT VÀI NHẬN XÉT

Rảo qua một lượt những học thuyết trên, chúng ta nhận ra ai nấy đều tin vào một tiến trình nên thánh. Nghĩa là chỉ có thể nên thánh dần dần, từng bước một. Và như thế, xem ra có thể phác họa những bước tiến đó.

Bước tiến dễ được đồng hóa với bậc thang tri nghiệm, nghĩa là huyền thức càng sâu, thì thánh thiện càng cao. Và như thế, có gì giống quan điểm của Ấn giáo, Phật giáo. Với Ấn giáo, Phật giáo, giải thoát là ở một huyền thức, Samâdhi. Chính Samâdhi cũng tiến từng nấc một.

Nếu toàn thiện là một với tri nghiệm ở đỉnh chót, thì hẳn chỉ kẻ chiêm chuyên nghiệp mới có khả năng nên thánh, ít là nên thánh cao. Và như thế, các sứ giả Tin Mừng, dù vì Chúa mà gian khổ đến đâu, thậm chí liều thân nữa, sao có được may mắn đó? Thật “vô lý chi thậm”!

Sau này, thần học có quan tâm đến đạo đức thật, chứ không tri nghiệm suông. Có điều huyền thức vẫn được đề cao, và đạo đức được thang bậc hóa theo lý, chứ chưa được trình bày theo chuyển biến tâm lý thật sự.

Một khi sau này hai lược đồ Tam đạo (Thanh-Minh-Hiệp) và Tam bộ (Khởi-Tiến-Thành) song hành với nhau trong suy tư, người ta cũng đặt cận kể cả nghiệm tri lẫn đức hạnh. Có điều như trong Tiên sa Avila và Gioan Thánh giá, nghiệm tri vẫn ở vị thế số một, nếu không nói là độc tôn, trong khi đạo đức chỉ được trình bày trong liên đới với nó thôi.

Về đạo đức, người ta vẫn nhấn vào đức Ái như Phaolô. Nếu đức Ái là quan trọng nhất, thì nên thánh phải là vì Chúa hơn là vì chính sự lành thánh của mình. Theo kinh nghiệm, cả thánh thiện bản thân và vinh quang của Chúa luôn đi đôi với nhau trong tâm ý. Thế nhưng ở giai đoạn đầu, người ta khát khao nên thánh nhiều hơn, trong khi ở giai đoạn cuối, người ta lại tìm Chúa, chứ nên thánh không còn là bận tâm chính nữa.

Nếu bước tiến là từ nên thánh đến tìm Chúa, thì bước tiến ấy cũng là từ đạo đức đắc thù (vertu acquise) sang đạo đức thiên phú (vertu infuse). Nghĩa là hồi đầu, người ta tưởng như nên thánh là nhờ cố gắng và trong khả năng của mình. Nhưng khi vào sâu rồi, người ta mới cảm nhận sự bất lực để chỉ trông vào Chúa thôi. Cũng hồi đầu, người ta mỏi tay kín nước giếng để tưới tắm vườn cây thánh thiện, để cuối cùng, khu vườn ấy được tưới quá tốt chỉ bằng những cơn mưa (Tiên sa Avila dùng hình ảnh Tưới để phân biệt bốn cấp suy chiêm; x. Tự Truyện, ch. 11).

Đắc thủ và thiên phú khác nhau bằng khoảng cách quá lớn, khoảng cách giữa Người làm và Trời làm. Tu đức xưa nói đến Đắc thủ và Thiên phú trong chiêm niệm. Thiết tưởng nên nối dài hai chuyên tính sang cả hành động nữa, để cuộc sống thành một dưới hai mật chiêm và hành. Nghĩa là có toàn thiện thủ đắc và toàn thiện thiên phú nó phải thiện toàn hơn hẳn. Và sự toàn thiện hai cấp hay hai loại ấy diễn ra dưới hai mặt chiêm và hành, với sự nghiêng về hành cho tông đồ, nghiêng về chiêm trong đan tu.

Riêng về ý thức, dù trong đời sống hành hay chiêm, bước tiến hẳn là từ nên thánh làm giàu sang nên thánh làm nghèo. Bắt đầu, người ta lo ươm trồng các đức và thu nhập ân sủng. Nhưng rồi người ta sẽ hiểu ra: vấn đề chính là Vét rỗng, sao không còn tưởng mình Có gì, Là gì nữa, mà CHẲNG ĐÁNG GÌ trước Chúa. Chỉ khi tôi bé lại tới số KHÔNG ấy, Thần khí hết vướng vít mới có thể vào cuộc toàn phần, hầu biến tôi thành kiệt tác phẩm.

Nói cho đúng ra, lúc khởi đầu, không nên đi ngay vào con đường tin tưởng đến Buông mặc (abandon), vì nếu bị hiểu sai, phó thác sẽ thành ỷ lại, khiến ta không cố công nên thánh, cố rèn nhân cách, cố luyện sự tự chủ và đạo đức bản thân (vertu personnelle). Chờ khi cố gắng đã quen, các đức đã có gì vưng vững, ta sẽ bớt dần phần mình để tăng dẩn phần Chúa. Đây là ý thức về sự bất lực và thiếu thốn để dễ buông mình trong tay Chúa. Có thế, Chúa mới hành động nổi. Chứ cứ ỷ vào mình, tôi sẽ kiêu ngạo lên, và cái Tôi quá lớn làm nghẽn lối của Chúa.

Cũng nên nhớ, trong tiến trình nên thánh, quan trọng nhất là cái trớn đầu tiên. Trớn yếu là của kẻ chỉ muốn bớt tội và tránh địa ngục, khiến không thể tiến xa. Riêng kẻ, do sự thôi thúc của ân sủng, muốn làm thánh và hiến thân hoàn toàn cho Chúa, chính kẻ ấy mới trên đà nên thánh thật sự, và lược đồ dù Ba đường hay Ba bước cũng chỉ áp dụng được cho họ mà thôi. Vâng, miễn là quyết định ban đầu ấy nghiêm túc và do thúc đẩy của Thần khí, miễn là họ kiên trì, đi đúng lối và đủ thời gian, thì thế nào rồi họ cũng qua minh đạo vào hiệp đạo.

Sau đây, chúng ta sẽ lần lượt bàn giải và bàn giải mạch lạc về tiến trình nên thánh ở những mặt khác nhau của nó. Thế nào cũng phải chia tiến trình ấy thành những giai đoạn, nhưng nên hiểu rằng sự phân chia ấy chỉ mang tính chỉ dẫn (indicatif) thôi. Vì thật ra, những gì nói đến trong mỗi giai đoạn cũng gặp phần nào trong các giai đoạn kia nữa. Như thanh luyện chẳng hạn. Thêm vào đấy, sự “đốt giai đoạn” có thể xảy ra: Một kẻ đang sống buông thả có thể bỗng nhiên được mang tới cao đỉnh của chiêm, nhờ đó biến đổi hẳn, như Tiên sa Avila cho biết…

(còn tiếp)

**********

Hoành Sơn

Comments are closed.